Tân Nhạc VN – Thơ Phổ Nhạc – “Bài Thơ Đan Áo”, “Chuyện Hoa Tigôn” – TTKH & Anh Bằng

Đọc những bài cùng chuỗi, xin click vào đây .
Chào những bạn ,

Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn các thi khúc “Bài Thơ Đan Áo” (“Đan Áo Cho Chồng”), “Chuyện Hoa Tigôn” (“Hai Sắc Hoa Tigôn”) của Thi sĩ TTKHNhạc sĩ Anh Bằng.

TTKH là bút danh của một thi sĩ ẩn danh trong phong trào Thơ Mới (1930–1945), là tác giả bài “Hai Sắc Hoa Tigôn” nổi tiếng. Nhiều người đã suy đoán lai lịch thật của TTKH nhưng chưa có giả thuyết nào thuyết phục được công chúng.

Tháng 7 năm 1937, tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy ở TP. Hà Nội đăng truyện ngắn “ Hoa Tigôn ” của nhà văn Thanh Châu. khoảng chừng 2 tháng sau, thì “ tòa soạn nhận được một phong bì dán kín do một thiếu phụ trạc 20 tuổi, dáng nhỏ bé, thùy mị, nét mặt u buồn mang đến gửi cho chủ bút tờ báo trên, trong ấy chỉ vỏn vẹn có bài thơ “ Hai Sắc Hoa Tigôn ”, dưới ký tên là TTKH … Có thể nói đây là lần duy nhất người thiếu phụ ấy Open ” … Trong đó có những câu sau :

…Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người…

ttkh_bìa

Sau khi bài thơ được đăng, vấn đề trở nên rắc rối là vì một vài nhà thơ đương thời như Nguyễn Bính, Thâm Tâm đã sáng tác những bài thơ hưởng ứng, trong đó thầm thố lộ rằng mình có biết, thậm chí còn có “ dính líu tình cảm với người này ” từ trước ( xem “ Cô Gái Vườn Thanh ” của Nguyễn Bính, “ Màu Máu Tigôn ” của Thâm Tâm ). Và kể khi ấy, những lời đồn đại về TTKH càng nhiều, và càng có thêm nhiều dị bản .
TTKH chỉ đăng trên tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy có 3 bài thơ, đó là :

• “Hai Sắc Hoa Tigôn” (đăng ngày 23 tháng 9 năm 1937)
• “Bài Thơ Thứ Nhất” (đăng ngày 23 tháng 11 năm 1937)
• “Bài Thơ Cuối Cùng” (đăng ngày 30 tháng 10 năm 1938)

Riêng bài “ Đan Áo Cho Chồng ”, đăng trên báo Phụ Nữ Thời Đàm năm 1938 .
Các bài thơ của TTKH và sự huyền bí của tác giả đã từng gây rối loạn dư luận một thời. Những điều đó cũng tạo cảm hứng cho nhiều nhà văn, nhà thơ sáng tác những tác phẩm hưởng ứng tiếp nối đuôi nhau. Các bài thơ của TTKH cũng được vài nhạc sĩ phổ nhạc, như bài “ Chuyện Hoa Tigôn ”, “ Đan Áo Cho Chồng ” của NS Anh Bằng, cùng với bài “ Hai Sắc Hoa Tigôn ” của NS Trần Trịnh .

ttkh_ĐACC1

Thi phẩm “Đan Áo Cho Chồng” (Thi sĩ TTKH)

Chị ơi, nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương
Đã xa hẳn quãng đời hương
Đã đem lòng gửi gió sương mịt mùng.

Hay chăng chị mỗi chiều đông
Đáng thương những kẻ có chồng như em
Vẫn còn giá lạnh trong tim
Đan đi đan lại áo len cho chồng.

Con chim ai nhốt trong lồng
Hạt mưa nó rụng bên sông bơ thờ
Lưng trời nổi tiếng tiêu sơ
Hay đâu gió đã sang bờ ly tan.

Tháng ngày miễn cưỡng em đan
Kéo dài một chiếc áo lam cho chồng
Như con chim nhốt trong lồng
Tháng ngày than tiếc ánh hồng nơi nao.

Ngoài trời hoa nắng xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời.

Lòng em khổ lắm chị ơi
Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai
Quang cảnh lạ, tháng năm dài
Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.

ttkh_ĐACC

Thi khúc “Bài Thơ Đan Áo” (Nhạc sĩ Anh Bằng)

Chị ơi, nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương
Đã xa hẳn quãng đời hương
Đã đem lòng gửi gió sương mịt mùng.

Hay chăng chị mỗi chiều đông
Đáng thương những kẻ có chồng như em
Vẫn còn giá lạnh trong tim
Đan đi đan lại áo len cho chồng.

Con chim ai nhốt trong lồng
Hạt mưa nó rụng bên sông bơ thờ
Lưng trời nổi tiếng tiêu sơ
Hay đâu gió đã sang bờ ly tan.

Tháng ngày miễn cưỡng em đan
Kéo dài một chiếc áo lam cho chồng
Như con chim nhốt trong lồng
Tháng ngày than tiếc ánh hồng nơi nao.

Ngoài trời hoa nắng xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời.

Lòng em khổ lắm chị ơi
Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai
Quang cảnh lạ, tháng năm dài
Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.

ttkh_HSHTG

Thi phẩm “Hai Sắc Hoa Tigôn” (Thi sĩ TTKH)

Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương.

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương, cát,
Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng.

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
Bảo rằng: “Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!”

Thuở ấy, nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp: “Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy”

Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá! – Tôi buồn lắm,
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường…

Từ đấy, thu rồi, thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ…
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng “một người”.

Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ.
Và đỏ như màu máu thắm pha!

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi…
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy sang sông đứng ngóng đò.

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa… vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?

ttkh_ĐB1

Thi khúc “Chuyện Hoa Tigôn” (Nhạc sĩ Anh Bằng)

Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng biết buồn
Nhuộm ánh trăng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu thương

Người ấy thướng hay vuốt tóc tôi
Thở dài khi thấy tôi hay cười
Bảo rằng hoa sáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng thế thôi

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Từ mùa thu trước rất xa xôi
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời hỡi người ấy có buồn không
Có còn nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai tựa màu hồng

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Từ mùa thu trước rất xa xôi
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời hỡi người ấy có buồn không
Có còn nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai tựa máu hồng…

Dưới đây mình có bài :
– Huyền thoại TTKh và Hai sắc hoa ty gôn
Cùng với 6 clips và 1 link tổng hợp những thi khúc “ Bài Thơ Đan Áo ”, “ Chuyện Hoa Tigôn ” do những ca sĩ trong nước và hải ngoại diễn xướng để những bạn tiện việc tìm hiểu thêm và chiêm ngưỡng và thưởng thức .
Mời những bạn .
Túy Phượng
( Theo Wikipedia )

Huyền thoại TTKh và Hai sắc hoa ty gôn
( Thụy Khuê )
Trong những bài thơ tác giả ẩn danh hoặc ký tên nhưng không biết rõ người ấy là ai, Hai sắc hoa ty gôn và TTKh là một lịch sử một thời lãng mạn đã gây mối trắc ẩn cho nhiều thế hệ yêu thơ .
Câu chuyện khởi đầu cách đây 70 năm, ngày 27/9/1937 trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, số 174 xuất bản tại Thành Phố Hà Nội, có đăng truyện ngắn Hoa ty gôn của Thanh Châu, nội dung kể lại mối tình tan vỡ của đôi trai gái ngày trước đã hò hẹn dưới giàn hoa ty gôn. Ít lâu sau, có người đàn bà trẻ, dáng dấp nhỏ bé, nét mắt u buồn, mang đến tòa soạn Tiểu Thuyết Thứ Bẩy một phong bì dán kín, gửi cho ông chủ bút, trong có bài thơ Hai sắc hoa ty gôn, ký tên TTKh. Bài thơ Hai sắc hoa ty gôn được đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 179, ra ngày 30/10/1937, và sau đó còn ba bài nữa cũng ký tên TTKh được gửi bằng đường bưu điện đến tòa soạn :

– Bài thơ thứ nhất, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 182 (20/11/1937),
– Đan áo cho chồng, đăng trên Phụ Nữ Thời Đàm,
– Bài thơ cuối cùng, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, số 217 (23/7/1938).

Bài thơ thứ nhất Open sau Hai sắc hoa ty gôn gần một tháng, và Bài thơ sau cuối đăng tám tháng sau .
Ngay khi Hai sắc hoa ty gôn sinh ra, giới văn nghệ sĩ đã rối loạn, thi sĩ J. Leiba, người cùng tâm sự với TTKh và là tác giả hai câu thơ nổi tiếng “ Người đẹp vẫn thường hay chết yểu. Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai ”, chép lại nguyên văn bài Hai sắc hoa ty gôn trên Ngọ Báo với lời khởi đầu :

Anh chép bài thơ tự trái tim
Của người thiếu phụ lỡ làng duyên
Lời thơ tuyệt vọng ca đau khổ
Yên ủi anh và để tặng em.

Nguyễn Bính sau khi đọc Bài thơ thứ nhất đã viết bài Dòng dư lệ để Tặng Ngay TTKh, in lại trong tập Lỡ bước sang ngang và Thâm Tâm có ba bài Màu máu ti gôn, Dang dở và Gửi TTKh, và nhiều thế hệ sau còn có những bài thơ khác sụt sùi thương cảm cho số phận TTKh. Vậy TTKh là ai ?

Giọt lệ tương tư mới

Hai sắc hoa ty gôn mở đường cho một lối lãng mạn khác với lãng mạn Đông Hồ, Tương Phố. Có thể nói Hai sắc hoa ty gôn là giọt lệ tương tư mới, nơi TTKh, không phải là giọt lệ khóc chồng của Tương Phố, khóc vợ của Đông Hồ, mà là giọt lệ khóc cho tình yêu ; hơn thế nữa, khóc người tình ngoài hôn nhân gia đình, một đối tượng người dùng tự do, phóng khoáng, vượt khỏi khuôn khổ lễ giáo thời bấy giờ. Và lần tiên phong hai chữ người ấy được chính thức đưa vào thi ca, sau này nó sẽ trở thành “ cổ xưa ”, trở thành ngôn từ gối đầu giường của giới trẻ trong nhiều thế hệ :

Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương.

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương, cát,
Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng.

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
Bảo rằng:”Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!”

Thuở ấy, nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp:”Màu hoa trắng
Là chút long trong chẳng biến suy.”

Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá ! – Tôi buồn lắm,
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường…

Từ đấy, thu rồi, thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ…
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng “một người”.

Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ.
Và đỏ như màu máu thắm pha !

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi…
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi !

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi! Người ấy có buồn không ?
Có thầm nghĩ tới loài hoa… vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng ? (1)

Người ấy

Trong văn xuôi Nước Ta, hai chữ người ấy đã được Nguyễn Trọng Quản dùng để chỉ người tình trong truyện ngắn Thày Lazaro Phiền từ 1887. Vậy Nguyễn Trọng Quản là người tiên phong đưa danh từ Người ấy vào trong văn Việt. Và Thanh Châu xướng lên hình ảnh hoa ty gôn trong truyện ngắn đăng trước bài thơ của TTKh một tháng, trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy .
Nhưng TTKh là người tiên phong sử dụng hai chữ “ người ấy ” và hình ảnh “ hoa ty gôn ” vào thơ, như một hình tượng nghệ thuật và thẩm mỹ mơ hồ và phiếm định về người tình và cuộc tình tan vỡ. Về mặt tâm ý xã hội, người đàn bà có chồng những năm 36 – 37, mấy ai dám nói đến người tình một cách công khai minh bạch ? TTKh đã viết nên những lời tâm sự của bao nhiêu người đàn bà cùng cảnh ngộ ngang trái, sống trong xã hội Khổng Mạnh đầu thế kỷ :

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng “một người”.

TTKh là ai ?

Trong Bài thơ thứ nhất, in sau Hai sắc hoa ty gôn hai tháng, có những yếu tố xác lập rõ hơn về cuộc tình này :

Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.

và nhất là hai câu cuối :

Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.

Vườn Thanh và chồng nghiêm là hai yếu tố gây tranh luận về nơi xẩy ra cuộc tình và tên người chồng. Vườn Thanh ở đâu ? Có phải ở Thanh Hóa không ? Và người chồng của TTKh tên là gì ? Có phải là Nghiêm không ?
Đến bài thơ thứ ba, bài Đan áo cho chồng, lời thơ xa xót đầy nước mắt :

Ngoài trời mưa gió xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời.

Và Bài thơ sau cuối có những câu gần như khó hiểu :

Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì?

Bởi nếu TTKh là người đem chuyện của mình ra viết thành thơ, thì tại sao nàng lại trách ai ? Vậy ai đây là ai ? Nàng trách chính nàng hay nàng trách tình nhân ? Nhất là đoạn sau, lời hờn giận càng thêm nóng bức :

Là giết đời nhau đấy biết không?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng.

Tất cả những lời trách móc u uẩn này với nhịp điệu du dương, lời thơ tha thiết, gắn bó, làm cho hàng loạt tác phẩm trở thành lịch sử một thời .
Nếu so sánh 4 bài thơ ký tên TTKh và 3 bài thơ “ vấn đáp ” của Thâm Tâm in trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy sau đó, người ta hoàn toàn có thể mở được những nấc cửa tiên phong vào những huyền bí này. Bài Gửi TTKH của Thâm Tâm có những câu sau đây :

Tiếng xe trong vết bụi hồng
Nàng đi thuở ấy nhưng trong khói mờ
Tiếng xe trong xác pháo xưa,
Nàng đi có bốn bài thơ trở về
Tiếng xe mở lối vu qui
Nay là tiếng khóc nàng chia cuộc đời!
Miệng chồng, Khánh gắn trên môi
Hình anh, mắt Khánh sáng ngời còn mơ.
Từ ngày đàn chia đường tơ
Sao tôi không biết hững hờ nàng đan
Kéo dài một chiếc áo len
Tơ càng đứt mối, nàng càng nối dây.
Nàng còn gỡ mãi trên tay,
Thì tơ duyên mới đã thay hẳn màu.
Góp hai thứ tóc đôi đầu,
Sao còn đan nối những câu tâm tình?
Khánh ơi còn hỏi gì anh?
Lá rơi đã hết mầu xanh màu vàng.”

… .
Thâm Tâm nhắc đến tình nhân tên Khánh. Vậy TTKh là gì ? Có phải là những chữ Thâm Tâm – Khánh, viết tắt ? Hay là Tuấn Trình – Khánh ( vì Thâm Tâm tên thật là Nguyễn Tuấn Trình ). Hay TTKh là Trần Thị Khánh, tình nhân của Thâm Tâm ?
Có thể nói hầu hết những nhà biên khảo từ Hoài Thanh, Hoài Chân, trong Thi Nhân Nước Ta ( 1940 ), Phạm Thế Ngũ trong Nước Ta Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên ( 1965 ), Nguyễn Hữu Long, Nguyễn Tấn Trọng trong Nước Ta Thi Nhân Tiền Chiến ( 1968 ) … và gần đây trong Tuyển Tập Thơ Mới 1932 – 1945 Tác Giả và Tác Phẩm do Lại Nguyên Ân và Ý Nhi tập hợp phát hành năm 1992, toàn bộ đều ghi lại hỏi về TTKh .

Lập luận của Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng 

Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng là hai nhà biên khảo tiên phong có ý khám phá kỹ nhất về cái mà hai ông gọi là “ Nghi án TTKH và Thâm Tâm ”. Trong bộViệt Nam Thi Nhân Tiền Chiến, hai ông đưa ra những nhân chứng và những giả thuyết đã Open trên báo chí truyền thông, văn đàn từ năm 38 đến 68 của những ông Giang Tử, Thạch Hồ, Y Châu, Nguyễn Bá Thế, Lê Công Tâm, Anh Đào. Người thì cho rằng TTKh chính là Thâm Tâm. Người lại quả quyết TTKh là Trần Thị Khánh, tình nhân của Thâm Tâm .
Ông Giang Tử thuật lại cuộc gặp gỡ với nhà thơ Tế Hanh vào tháng 11 năm 1944 trên chuyến xe đi Tỉnh Quảng Ngãi : “ Tế Hanh cho biết TTKh chính là Trần Thị Khánh, người em gái đồng tông với mình ở Thanh Hoá và kể rõ thiên tình hận của nàng và thi sĩ Thâm Tâm. Giả thuyết này không đứng vững vì Tế Hanh không phải người Thanh Hoá mà Tỉnh Quảng Ngãi và vườn Thanh trong bài thơ không chắc đã là Thanh Hoá .
Ông Thạch Hồ và ông Y Châu đều cho biết : TTKh là nhân vật có thật, đã đôi ba lần đến thăm thi sĩ Thâm Tâm ở Khâm Thiên, lúc ông này ở chung với Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân ( giả thuyết này tương thích với lời tường thuật của Nguyễn Vỹ sau này ) .
Ông Nguyễn Bá Thế, tức nhà văn Thế Nguyên lại xác lập : TTKh chính là nhà văn Thẩm Thệ Hà, có tên thật là Tạ Thành Kỉnh, TT là Tạ Thành còn K và H là chữ Kỉnh viết tắt. Việc này bị Thẩm Thệ Hà phủ định trọn vẹn .
Nhưng có ba giả thuyết đáng chú ý quan tâm :
– Trên tạp chí Giáo Dục Phổ Thông, số 49, ra ngày 1/11/1959, tại Hồ Chí Minh, ông Lê Công Tâm cho biết : TTKh chính là thi sĩ Thâm Tâm, người đã dàn cảnh một thiếu phụ bị ép duyên, khóc tình dang dở bằng những bài thơ Hai sắc hoa ty gôn và Bài thơ thứ nhất .
– Báo Sống ra ngày 15/4/1967, ông Nguyễn Tố, xác lập đã sống chung với Thâm Tâm năm 1936, cùng với Trần Huyền Trân, Vũ Trọng Can. Thâm Tâm có mấy bài thơ ký tên TTKh như bài Hai sắc hoa ty gôn. Lúc đó Khánh là người mà Thâm Tâm yêu say đắm, lúc Khánh đi lấy chồng, Thâm Tâm đau khổ gần như phát điên. Lũ chúng tôi vừa giễu cợt, vừa khuyên lơn. Chính trong thời hạn thất tình, Thâm Tâm viết được mấy bài thơ ký tên TTKh .
– Nhưng trong báo Nhân Loại, bộ mới số 108 ra tháng 7 năm 1958 tại Sàigòn, ông Anh Đào lại đưa ra một thoại mới mà thoại này, theo ông, do chính Thâm Tâm kể lại. Ông Anh Đào kể rằng : Năm 1941, trong một đêm thu lạnh lẽo, ông được ngồi giữa hai nhà thơ Nguyễn Bính và Thâm Tâm bên một bàn đèn thuốc phiện và chính ông được nghe Thâm Tâm tâm sự. Thâm Tâm nói rằng : TTKh. là tên một thiếu phụ mà trước kia tôi yêu. Và Thâm Tâm xác lập những bài thơ đăng trên báo là của nàng, và ông Anh Đào Tóm lại rằng Thâm Tâm xứng danh là “ người ấy ” của TTKh .
Sau khi đưa ra những luận chứng và giả thuyết trên đây, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng, tác giả Nước Ta Thi Nhân Tiền Chiến, Kết luận :
TTKh. không hề là loại sản phẩm tưởng tượng của Thâm Tâm vì đó là nỗi lòng tha thiết của một người, với những vần thơ lâm ly như thế thì người khác không hề viết thay được. Vậy Thâm Tâm là Thâm Tâm và TTKh là TTKh. Hai người hoàn toàn có thể là đôi tri kỷ nhưng không hề cùng là một người. Các tác giả Nước Ta Thi Nhân Tiền Chiến muốn đóng hồ sơ nghi hoặc trên một lịch sử một thời .

Sự xác định của Nguyễn Vỹ

Nguyễn Vỹ là một trong những nhà thơ tiên phong trong trào lưu Thơ Mới. Năm 1970, khi Nguyễn Vỹ xuất bản cuốn Văn Thi Sĩ Tiền Chiến tại Sàigòn, thì ông đã đưa sự thực về Thâm Tâm và TTKh ra ánh sáng .
Như tất cả chúng ta đã biết, sau Phan Khôi, Nguyễn Vỹ cùng với Lưu Trọng Lư, Nguyễn Thị Manh Manh, Thế Lữ là những người đã tăng trưởng trào lưu Thơ Mới. Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn lập trường phái Bạch Nga, chủ trương cải cách thơ, chú trọng đến góc nhìn âm nhạc và hình thức xếp chữ trong thơ. Trường phái Bạch Nga bị Thế Lữ và Hoài Thanh đả kích kịch liệt, thơ Nguyễn Vỹ không được tiếp đón đúng mức. Đánh giá thơ Nguyễn Vỹ là một yếu tố khác mà chúng tôi không đề cập đến trong bài này. Nguyễn Vỹ là bạn thân của Lan Khai, Lưu Trọng Lư, Trương Tửu và trong cuốn Văn Thi Sĩ Tiền Chiến ông đã vẽ lại chân dung 35 nhà văn, nhà thơ hoạt động và sinh hoạt trong không khí văn học từ đầu thế kỷ đến 1945. Một tư liệu quý cho những người nghiên cứu và điều tra văn học .
Sau hơn 30 năm im re, 1970, một năm trước khi mất, Nguyễn Vỹ đã công bố những lời tâm sự của Thâm Tâm 22 năm sau khi Thâm Tâm qua đời trong bài viếtThâm Tâm và sự thât về TTKh. mà chúng tôi xin lược trình sau đây :
Năm 1936, 37 có Open ở phố Chợ Hôm, ngoại ô TP.HN, một nhóm văn sĩ trẻ với bút hiệu là Trần Huyền Trân, Thâm Tâm và một vài người nữa. Ít ai chú ý đến họ. Huyền Trân và Thâm Tâm đều mới 18, 19 tuổi. Họ có một tờ tuần báo nhỏ, tên là Bắc Hà ở phố Chợ Hôm. Chủ động trên tờ báo là Trần Huyền Trân. Báo Bắc Hà bán không chạy lắm, tuy có vài mục vui nhộn, vui, nhờ mấy bức vẽ của Tuấn Trình. Thâm Tâm là bút hiệu của Tuấn Trình. Tuấn Trình vẽ nhiều hơn viết, đôi lúc đăng một bài thơ, vài mẩu truyện ngắn. Đôi khi thấy Open trên mặt báo vài ba bài thơ có tính cách ca dao, ái tình của Nguyễn Bính học viên lớp nhất trường tiểu học HĐ Hà Đông. Nguyễn Bính thi rớt, nghỉ học luôn .
Tôi – tức là Nguyễn Vỹ – tuy không chơi thân, nhưng quen biết Trần Huyền Trân khá nhiều vì anh ta ở trọ một căn nhà trong ngõ Khâm Thiên, phía sau chợ. Tôi ở một gác trọ của đường Khâm Thiên, gần Ô Chợ Dừa. Đôi khi Trần Huyền Trân nhờ tôi viết bài cho tuần báo Bắc Hà “ cho vui ” vì không có tiền nhuận bút. Để tỏ tình thông của văn nghệ, tôi có viết một truyện ngắn khôi hài, và chỉ có một lần .
Trong 1 số ít báo đặc biệt quan trọng Mùa Hè, Tuấn Trình có vẽ một cặp Bạch Nga bơi trên Hồ Hoàn Kiếm và ghi ở dưới “ Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn ” .
Tôi quen biết Tuấn Trình là do Trần Huyền Trân ra mắt. Nhà anh ở Chợ Hôm, cách chợ độ ba, bốn trăm thước. Anh đẹp trai, y phục khi nào cũng bảnh bao, người có phong độ hào hoa, lịch sự và trang nhã. Tôi thấy ở Sàigòn có anh Hoàng Trúc Ly, nhà văn, na ná giống Tuấn Trình về dáng điệu cũng như tính tình, tư cách. Nhiều khi gặp Hoàng Trúc Ly trên đường Bonnard Sàigòn, tôi quên lững, cứ tưởng như gặp Tuấn Trình trên phố Chợ Hôm Thành Phố Hà Nội .
Một buổi chiều gần tối, Tuấn Trình đi long dong gần chợ Khâm Thiên. Tôi từ Thành Phố Hà Nội về nhà, tôi tưởng anh đến Trần Huyền Trân, nhưng anh bảo : Thằng Huyền Trân nó đi đâu, không có nhà. Tôi rủ anh về gác trọ của tôi ở cuối phố. Hôm ấy, tôi có vài chục bạc trong túi, hoàn toàn có thể làm một tiệc bánh giò chả lụa với Tuấn Trình. Tôi bảo anh ở lại ngủ với tôi cho vui. Đêm ấy cao hứng, Tuấn Trình ngà ngà say rượu Văn Điển, kể chuyện tình của anh với cô Khánh cho tôi nghe .

Câu chuyện tình

Trần Thị Khánh là một cô học trò lớp nhất trường tiểu học Sinh Từ. Thi hỏng, cô ở nhà giúp mẹ thao tác nội trợ. Nhà cô cũng ở đường Sinh Từ, ngay cạnh Thanh Giám, nơi đền thờ Khổng Tử .
Thanh Giám là một thắng cảnh TP. Hà Nội, đã liệt vào cổ tích Nước Ta, kiến thiết từ đời nhà Lý, trùng tu cho tới đời nhà Lê, hình chữ nhật, xung quanh xây tường đá ong, cao độ hai thước Đền thì ở trong cùng, trước đền có Hồ Tròn, hai bên hồ có những tấm bia ghi tên những tiến sỹ đời nhà Lê. Vào Thanh Giám có cổng tam quan lớn, trước cổng có tấm bia đề hai chữ Hán “ Hạ mã ” và hai trụ cao. Trong vườn trồng rất nhiều cây cổ thụ và những cây kiểng, nơi đây rất yên tĩnh và thoáng mát, cũng là nơi những cặp trai gái hẹn hò tâm sự. Trước kia có một bầy quạ chiều tối bay về đây ngủ, cho nên người Pháp cũng gọi là Pagode des corbeaux. Chùa Quạ, ngoài danh từ lịch sử vẻ vang Temple de Confucius, Đền Khổng Tử .
Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là một thiếu nữ đẹp. Tuấn Trình có một người cô, nhà ở phố Chợ Cửa Nam, gần Sinh Từ. Anh thường đến đây thăm cô và trông thấy cô Khánh đi chợ mỗi buổi sáng. Lúc ấy vào khoảng chừng tháng 2 năm 1936, họa sỹ Tuấn Trình – tên gọi hồi đó – mới 19 tuổi, và cô Khánh 17 tuổi. Tuấn Trình mới mở màn vẽ và viết chút ít trong tờ tuần báo Bắc Hà của Trần Huyền Trân vừa Open .
Sau một vài tháng theo dõi, Tuấn Trình làm quen được với cô Khánh và gởi báo Bắc Hà Tặng cô. Cô gái 17 tuổi, cảm mến người nghệ sĩ tài hoa, tình yêu chớm nở như cành hoa antigone trắng cũng vừa chớm nở trong tháng đầu hè trước sân nhà cô .
Antigone là loại hoa của người Pháp đem qua hồi đầu thế kỷ, không thơm nhưng đẹp. Nó là loại hoa dây, lá giống như lá nho, cho nên vì thế ở miền Nam nhiều người gọi là hoa nho. Có hai loại : hoa trắng và hoa hồng. Hoa nở vào đầu mùa hè thành những chùm rất đáng yêu và dễ thương, nụ hoa giống hình trái tim nho nhỏ. Ở Thành Phố Hà Nội người ta trồng rất nhiều và bán cũng rất nhiều ở chợ Đồng Xuân, cũng như ở Chợ Hoa, bờ hồ Hoàn Kiếm. Cắm nó vào lọ để phòng khách, nó buông ra một vẻ lãng mạn, khả ái lắm. Người Bắc gọi tắt là hoa ty gôn. Ở phố Sinh Từ, antigone mọc rất nhiều, như trước sân nhà ông Nguyễn Văn Vĩnh và Nguyễn Nhược Pháp. Nhà trọ của Lưu Trọng Lư và Lê Tràng Kiều ở phố Hàm Long có cả một giàn hoa trắng và hồng. Nhưng mùa đông lá rụng, hoa tàn thì không cảnh nào tiêu sơ quạnh quẽ bằng .
Tình yêu của Tuấn Trình và Trần Thị Khánh chớm nở ngay lúc những chùm hoa antigone vừa hé nụ, và chết giữa mùa đông năm đó, trong lúc giàn hoa ty gôn úa tàn, rụng ngập đầy sân. Thời kỳ mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng hè, sang hết mùa thu, không đem lại chút thỏa mãn nhu cầu nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình .
Chính lúc này Tuấn Trình lấy bút hiệu là Thâm Tâm. Một vài bài thơ tình thức đêm làm khuyến mãi ngay cô Khánh. Những bài thơ tiên phong đăng trên tuần báo Bắc Hà đều ký là Thâm Tâm, nhưng những tranh vẽ trong báo vẫn ký Tuấn Trình. Nhưng cô gái 17 tuổi, dè dặt, theo lễ giáo của mái ấm gia đình, chưa thật khi nào phân phối đúng với tình yêu tha thiết của Tuấn Trình Thâm Tâm .
Trong lúc những cặp tình nhân tươi tắn dắt nhau đi du ngoạn khắp nơi thơ mộng ở TP.HN và ngoại ô, thì Trần Thị Khánh cứ phải phủ nhận những lời mời của Thâm Tâm. Cô thường nói : “ Thầy mẹ em nghiêm lắm, mái ấm gia đình em nghiêm lắm. ” Lần nào cô Khánh cũng lặp lại chữ nghiêm gia giáo ấy để vấn đáp kỳ vọng khát khao của tình nhân .
Chỉ được hai lần Khánh đến nơi hẹn, nhưng không được lâu. Lần thứ nhất, một đêm trăng, Khánh lẻn băng qua đường vào vườn Thanh Giám. Tuấn Trình đã chờ người yêu nơi đây, dưới bóng cổ thụ. Nhưng cả hai cũng không nói được gì, Khánh lo âu. Tuấn Trình bồn chồn, tổng thể những lời lẽ bay bướm đã sắp sẵn, giờ đây quên hết. Cuối cùng lại trách móc nhau vì những chữ “ Thầy mẹ em nghiêm lắm ” và rồi Khánh cũng vội vã chạy về nhà .
Lần thứ hai, vườn Thanh Giám đêm ấy cũng ngập ánh trăng thu. Nhiều người nói Thanh là Thanh Hóa, là trọn vẹn sai thực sự. Nhưng thái độ của Khánh lạ lùng, khó hiểu. Hình như Khánh muốn nói với Tuấn Trình một điều gì, nhưng ngại ngùng không nói. Rồi nàng buồn bã hỏi : “ Anh định khi nào đến xin thầy mẹ cho chúng mình ? ” Chàng họa sỹ bồn chồn trước câu hỏi giật mình. Chàng lơ đễnh bảo : “ Anh chưa nghĩ đến việc ấy, vì … ” Câu chuyện bị bỏ lỡ nơi đây cho đến khi từ giã .
Hai người vẫn thư từ với nhau cho đến một hôm … Tuấn Trình nhận được bức thư của tình nhân, không, của người đã hết yêu, báo tin nàng sắp lấy chồng. Thư viết bằng mực tím, trên bốn trang giấy học trò, xé trong một quyển vở Nam Phương Hoàng hậu ( loại vở học trò rất thông dụng lúc bấy giờ ) .
Đại khái trong thư Khánh nhắc lại tình yêu “ thơ mộng ” của cô với “ người nghệ sĩ tài hoa son trẻ ”, đó là những chữ cô dùng trong thư. Tình yêu rất đẹp, nhưng vì thầy mẹ của cô rất “ nghiêm ” theo lễ giáo, nên dù vị hôn phu của cô là một người chỉ mới biết sơ thôi nhưng cô vẫn có “ bổn phận phải giữ tròn chữ hiếu ”, cô than phiền đời cô khổ nên tình duyên ngang trái, cô khóc suốt đêm, v.v … Cuối thư ký tắt Kh .
Tuy Khánh không viết gì về vị hôn phu và ngày cưới, nhưng sau dọ hỏi, Tuấn Trình được biết chồng Khánh là một nhà buôn giàu sang ở phố Hàng Ngang, 39 tuổi, đẹp trai, góa vợ và không có con. ( Trong câu thơ bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi là chỉ sự cách biệt tương đối giữa tuổi 39 của người chồng và tuổi vị thành niên của Khánh ). Tiệc cưới rất linh đình, rước dâu bằng 10 chiếc Citroën mới. Cô dâu đeo nữ trang rực rỡ tỏa nắng, mặc chiếc áo màu đỏ tươi, lộng lẫy ngồi cạnh người chồng mặc áo gấm xanh .
Đêm trước hôm cô Khánh lên xe hoa, Thâm Tâm tổ chức triển khai tại tòa báo Bắc Hà một tiệc thịt chó, uống Mai quế lộ, mời Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can tham gia. Họ say sưa ngâm thơ, làm thơ, cười đùa cho đến khuya rồi lăn ra ngủ trên đất .
Trái với mọi Dự kiến, Khánh rất niềm hạnh phúc với chồng. Người đau khổ là Tuấn Trình Thâm Tâm. Vừa nhớ thương đơn phận, vừa bị mặc cảm của người nghệ sĩ nghèo bị tình nhân bỏ rơi, lại còn bị mấy thằng bạn chế nhạo, đùa bỡn, nhất là Vũ Trọng Can .
Vì một chút ít tự ái văn nghệ, Tuấn Trình đã thức suốt đêm, theo lời anh thuật lại, để làm bài thơ Hai sắc hoa ty gôn, ký tên TTKh, với thâm ý cho Trần Huyền Trân và Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm ra để thương tiếc mối tình tan vỡ. Muốn giữ tính cách bí hiểm, Tuấn Trình nhờ cô em họ chép lại bài thơ trên, dán kín bao thơ và nhờ cô này mang thư đến tòa báo .
Tất nhiên là giọng thơ lãng mạn của Tuấn Trình trọn vẹn khác với lời tâm sự trong bức thư sau cuối của Khánh báo tin sắp lấy chồng. Cô Khánh không biết làm thơ. Và theo lời Tuấn Trình, cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm. Sau khi nhận được bức thư ở đầu cuối của Khánh, trong thư Khánh tỏ ý không bằng lòng Tuấn Trình đã mượn tên cô để làm thơ kể chuyện tình duyên cũ trên báo, hoàn toàn có thể làm hại đến cuộc sống của cô. Trong lá thư phản đối đó, Khánh xưng tôi chứ không xưng em nữa .
Thâm Tâm lấy lại những lời, những chữ trách móc khó chịu của Khánh trong thư để làm Bài thơ ở đầu cuối ký tên TTKh, với những câu :

Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì?

Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem.
Là giết đời nhau đấy biết không?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng.
Từ nay anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình

Rồi để đáp lại Bài thơ ở đầu cuối, Thâm Tâm làm bài Dang dở khuyến mãi TTKh, cũng là bài thơ kết thúc niềm đau của mối tình dang dở :

Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết,
Anh càng buồn càng muốn kết thành thơ,
Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ,
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn.

Huyền thoại Hai sắc hoa ti gôn, sở dĩ được những tên tuổi nổi tiếng của thi ca đương thời phụ họa và đứng vững lâu dài hơn trong lòng người đọc, bởi nó chở những đớn đau chân thực của một người tình, dù viết dưới bàn tay trá hình Thâm Tâm. Và cũng nhờ kĩ năng của Thâm Tâm mà tất cả chúng ta có được hai hình tượng mới : người ấy và hoa ty gôn. Tính mơ hồ bóng gió của người ấy và cái chết thảm khốc của Antigone ẩn trong một chùm hoa nhỏ, xinh như mộng, càng làm tăng thêm chất bi đát thầm lặng của tình yêu, liệm thêm sự bí hiểm của những chữ TTKH .

Phụ lục

Bài thơ thứ nhất – TTKh (2)

Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại
Êm ái trao tôi một vết thương.
Tai ác ngờ đâu gió lại qua
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa.
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều.
Từ đấy không mong không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.
Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chả nên chờ.
Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
“Cố quên đi nhé câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ”.
Tôi run sợ viết lặng im nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến
Song đời nào dám gặp ai về.
Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa than ôi
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.

Đan áo cho chồng – TTKh (3)

Chị ơi, nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương
Đã xa hẳn quãng đời hương
Đã đem lòng gửi gió sương mịt mùng
Hay chăng chị mỗi chiều đông
Đáng thương những kẻ có chồng như em
Vẫn còn giá lạnh trong tim
Đan đi đan lại áo len cho chồng
Con chim ai nhốt trong lồng
Hạt mưa nó rụng bên sông bơ thờ
Lưng trời nổi tiếng tiêu sơ
Hay đâu gió đã sang bờ ly tan
Tháng ngày miễn cưỡng em đan
Kéo dài một chiếc áo lam cho chồng
Như con chim nhốt trong lồng
Tháng ngày than tiếc ánh hồng nơi nao
Ngoài trời hoa nắng xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời
Lòng em khổ lắm chị ơi
Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai
Quang cảnh lạ, tháng năm dài
Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.

Bài thơ cuối cùng – TTKh (4)

Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ?
Một mùa thu cũ một lòng đau…
Ba năm ví biết anh còn nhớ,
Em đã câm lời có nói đâu!
Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly,
Càng khơi càng thấy lụy từng khi
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì?
Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ “đan áo” của chồng em
Bài thơ “đan áo” nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem…
Là giết đời nhau đấy biết không ?
…Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh, em viết dòng dư lệ,
Là chút dư hương điệu cuối cùng!
Từ nay anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng, hừ! đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi…
Buồng nghiêm thờ thẩn hồn eo hẹp
Đi nhớ người không muốn nhớ lời!
Tôi oán hờn anh mỗi phút giây,
Tôi run sợ viết, bởi rồi đây,
Nếu không yên được thì tôi … chết
Đêm hỡi, làm sao tối thế này?
Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẳng làm quên;
Và người vỡ lỡ duyên thầm kín
Lại chính là anh? anh của em!
Tôi biết làm sao được hỡi trời?
Giận anh không nỡ nhớ không thôi!
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt…
 Sợ quá đi, anh… “có một người”!…

Gửi T.T. Kh. – Thâm Tâm (5)

Các anh hãy uống thật say,
Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im
Giờ hình như quá nửa đêm ?
Lòng đau đem lại cái tin cuối mùa
Hơi đàn buồn như trời mưa
Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi
Giờ hình như ở ngoài trời
Tiếng xe đã nghiến đã rời rã đi.

Hồn tôi lờ mờ sương khuya
Bởi chưng tôi viết bài thơ trả lời
Vâng, tôi biết có một người
Một đêm cố tưởng rằng tôi là chồng
Ðể hôm sau khóc trong lòng
Vâng tôi có biết cánh đồng thời gian
Hôm nay rụng hết lá vàng
Và tôi lỡ chuyến chiều tàn về không.
Tiếng xe trong vết bụi hồng
Nàng đi thuở ấy nhưng trong khói mờ.
Tiếng xe trong xác pháo xưa,
Nàng đi có bốn bài thơ trở về.
Tiếng xe mở lối vu qui
Nay là tiếng khóc nàng chia cuộc đời !
Miệng chồng Khánh gắn trên môi
Hình anh mắt Khánh sáng ngời còn mơ.
Từ ngày đàn chia đường tơ
Sao tôi không biết hững hờ nàng đan.
Kéo dài một chiếc áo len
Tơ càng đứt mối, nàng càng nối giây.
Nàng còn gỡ mãi trên tay
Thì tơ duyên mới đã thay hẳn màu.
Góp hai thứ tóc đôi đầu,
Sao còn đan nối những câu tâm tình?
Từng năm từng đứa con non
Mỉm cười vá kín vết thương lại lành.
Khánh ơi còn hỏi gì anh?
Xưa tình đã vỡ, nay tình lại nguyên
Em về đan mối tơ duyên
Vào tà áo mới, đừng tìm duyên xưa.
Bao nhiêu giọt lệ còn thừa,
Hãy dành mà khóc những giờ vị vong.
Bao nhiêu giọt lệ còn thừa,
Hãy dâng cho trọn nghĩa chồng, hồn cha.
Nhắc làm chi chuyện đôi ta
Cuộc đời anh đã phong ba dập vùi…

Hãy vui lên các anh ơi
Nàng đi, tôi gọi hồn tôi trở về
Tâm hồn lạnh nhạt đêm nghe
Tiếng mùa lá chết đã xê dịch chiều
Giờ hình như gió thổi nhiều
Những loài “hoa máu” đã gieo nốt đời.
Bao nhiêu nghệ sĩ nổi trôi
Sá chi cái đẹp dưới trời mong manh?
Sá chi những chuyện tâm tình
Lòng đau đem chứa trong bình rượu cay.

— — — — — — — — — — — — — — — –

(1) Hai sắc hoa ty gôn – TTKH (Tiểu thuyết thứ bảy, số 179, 30/10/1937)
(2) Tiểu thuyết thứ bảy, số 182 ra ngày  20-11-1937)
(3) Phụ nữ thời đàm
(4) Tiểu thuyết thứ bảy, số 217, 23/07/1938)
(5) Tiểu thuyết thứ bảy, số 307, 04/05/1940)

oOo

Chuyện Hoa Tigôn – Ca sĩ Như Quỳnh:

Chuyện Hoa Tigôn – Ca sĩ Diệp Thanh Thanh:

Bài Thơ Đan Áo – Hồng Vân diễn ngâm:

Hai Sắc Hoa Tigôn – Hồng Vân diễn ngâm:

Bài Thơ Đan Áo – Hoàng Oanh diễn ngâm:

Hai Sắc Hoa Tigôn – Hoàng Oanh diễn ngâm:

Các bạn vào link dưới đây để nghe thi khúc “ Bài Thơ Đan Áo ” do ca sĩ Diệp Thanh Thanh diễn xướng :
Bài Thơ Đan Áo – Diệp Thanh Thanh

Share this:

  • Thêm

Thích bài này:

Thích

Xem thêm: ÁO KHOÁC

Đang tải …

Source: http://thoitrangviet247.com
Category: Áo

5/5 - (1 bình chọn)

Bài viết liên quan

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận