Điều này đã được Trịnh Hoài Đức ghi lại trong Gia Định thành thông chí như sau : “ Duy có người Việt ta noi theo tục cũ Giao chỉ : người quan chức thì đội khăn cao sơn, mặc áo phi phong, mang giày bì đà, hạng sĩ thứ thì bới tóc, đi chân trần, con trai con gái đều mặc áo vắn tay bâu thẳng, may kín hai nách, không có quần, con trai dùng một miếng vải buộc từ sau sống lưng thẳng đến dưới háng quanh lên đến rún, gọi là cái khố, con gái có người không mặc váy, đội nón lớn, hút điếu binh, ở nhà thấp, trải chiếu ngồi dưới đất, không có bàn và ghế. Năm Mậu Ngọ ( 1738 ) Thế Tôn Hiếu võ Hoàng đế định lại sắc phục, những quan văn võ châm chước theo chính sách của đời Hán Đường, đến Đại Minh thì hình thức mới chế như phẩm phục quan chế thời nay đã phát hành theo trong Hội điển, gồm đủ cả văn chất. Còn y phục gia thất khí dụng của hàng sĩ thứ đại lược như thể chế đời Minh ” .
Phóng to
Chiếc áo bà ba mà người miền Nam ưa thích là vạt ngắn, không bâu, gần vạt áo có thêm hai túi to khá tiện lợi
Người nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long ngày xưa thường vận bộ bà ba đen đi đồng bởi nó vừa sạch, vừa dễ giặt giũĐến đời chúa Thế Tông Nguyễn Phước Khoát lại có một dịch chuyển lớn trong việc cải cách phục trang. Triều đình quy định cư dân Đàng Trong phải ăn mặc như người Tàu, phụ nữ mặc quần chứ không còn mặc váy như người Đàng Ngoài .
Cho đến nay, về cơ bản, cách mặc của cư dân đồng bằng sông Cửu Long khá thống nhất với các vùng miền trong cả nước. Nhưng do đặc điểm địa hình, thời tiết, khí hậu, mà người dân nơi đây vẫn có những bộ trang phục đặc trưng.
Bạn đang đọc: Nét đặc trưng trong trang phục nông dân Nam bộ
Cư dân đồng bằng sông Cửu Long bao đời nay sống hầu hết dựa vào nông nghiệp, mà đời sống nông nghiệp thì buộc con người suốt ngày phải “ bán mặt cho đất, bán sống lưng cho trời ”, quanh năm chân lấm tay bùn, lại gặp điều kiện kèm theo thời tiết hai mùa mưa nắng rõ ràng nên không mấy thích hợp cho việc ăn mặc sang trọng và quý phái. Do đó, sắc tố trong phục trang của người dân nơi đây rất lâu rồi thường có gam chủ yếu là đen, nâu sậm, màu trắng ít khi được chọn, trừ khi đi đám tiệc, liên hoan. Ngày xưa, để nhuộm vải, người ta dùng lá bàng, vỏ trâm bầu, trái mặc nưa … để nhuộm, rồi phủ bùn nhằm mục đích chống thôi màu. Có một thời, chiếc áo bà ba và chiếc khăn rằn từng là phục sức phổ cập của dân cư .
Cho đến nay, chưa thấy có tư liệu nào xác lập rõ nguồn gốc của chiếc áo bà ba. Người ta chỉ biết rằng, vào đầu thế kỷ XX loại áo này đã được mặc khá phổ cập cả vùng Nam bộ. Theo nhà văn Sơn Nam thì “ Bà Ba là người Mã Lai lai Trung Quốc. Chiếc áo bà ba mà người miền Nam ưa thích, vạt ngắn không bâu chính là kiểu áo của người Bà Ba ”. Một ý niệm khác lại cho rằng “ Có thể áo bà ba ảnh hưởng tác động, cải cách từ áo lá và áo xá xẩu may bằng vải buồm đen của người Hoa lao động, là kiểu áo cứng, xẻ giữa, cài nút thắt … Phải chăng do thời tiết quanh năm nóng nực, họ bỏ luôn chiếc cổ thấp của áo lá và áo xá xẩu, mang thêm áo quanh chân cổ cho chắc. Áo xẻ giữa thay vì cài nút thắt đã được làm khuy, cài nút nhựa do ảnh hưởng tác động phương Tây ” .
Người nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long thời xưa thường vận bộ bà ba đen đi đồng, bởi nó vừa sạch, vừa dễ giặt giũ. Vải may là loại vải một, vải ú, vải sơn đầm … rất mau khô sau khi giặt. Bên cạnh đó, chiếc áo bà ba được xẻ ở hai bên hông làm cho người mặc cảm thấy tự do, gần vạt áo có thêm hai túi to khá tiện nghi cho việc đựng những đồ vật nhỏ như thuốc rê, diêm quẹt, tiền tài … Chính nhờ tính tiện lợi và sự tự do đó, chiếc áo bà ba được cả nam lẫn nữ ở đồng bằng sông Cửu Long mặc cả lúc đi làm, đi chợ, đi chơi. Riêng lúc đi chơi, họ thường chọn sắc tố nhẹ hơn như màu trắng, màu xám tro. Còn những cô, những bà thì chọn màu mạ non, xanh lơ nhạt … với vật liệu vải đắt tiền hơn như the, lụa …
Sau này, nhất là ở thời kỳ những năm 1960 – 1970, áo bà ba truyền thống cuội nguồn được phụ nữ thành thị nâng cấp cải tiến, vừa dân tộc bản địa, vừa đẹp và văn minh hơn. Áo dài bà ba lúc bấy giờ không thẳng và rộng như xưa, mà được may hẹp, nhấn thêm eo bụng, eo ngực cho ôm sát lấy thân hình. Ngoài ra, người ta còn phát minh sáng tạo những kiểu chắp vai, cổ tay, cửa tay, riêng những kiểu bâu ( cổ ) lá sen, cánh én, đan tôn … là được tiếp thu từ kiểu y phục quốc tế .
Các kiểu ráp tay cũng được cải tiến. Từ kiểu may áo cánh xưa, liền thân với tay, người ta nghĩ tới cách ráp tay rời ở bờ tay áo. Trong những năm 1970, thành thị miền Nam phổ biến kiểu ráp tay raglan, đã tạo nên vẻ đẹp hiện đại cho chiếc áo dài bà ba truyền thống. Với kiểu vai raglan này, hai thân áo trước và sau tách rời khỏi vai và tay áo, trong khi tay và áo lại liền từ cổ tới nách. Bà ba vai raglan chỉ cần may khít, vừa vặn với eo lưng, không quá thắt như kiểu áo trước đó. Tay áo dài hơn nhưng hơi loe, có khi người ta bỏ cả hai túi ở vạt trước để tạo cho thân áo nhẹ nhõm, mềm mại hơn.
Phóng toTheo các nhà nghiên cứu, chiếc khăn rằn có nguồn gốc từ người KhmerCòn chiếc khăn rằn cũng là hình ảnh rất là quen thuộc của người phụ nữ ở đồng bằng sông Cửu Long. Không rõ nó sinh ra từ khi nào, nhưng nó đã sát cánh cùng những con người thời khai hoang mở cõi phía Nam của Tổ quốc. Chiếc khăn rằn cùng chiếc áo bà ba đã trở thành hình ảnh rất là quen thuộc và thân thiện với mọi người, như thể một hình tượng cho người phụ nữ đồng bằng sông Cửu Long cần mẫn, đáng yêu .
Theo những nhà nghiên cứu thì chiếc khăn rằn có nguồn gốc từ người Khmer và trong quy trình cộng cư của những dân tộc bản địa trên vùng đất đồng bằng sông Cửu Long, nó đã được chuyển thành thứ phục trang đặc trưng của nhiều dân tộc bản địa khác. Chiếc khăn rằn thường có hai màu đen và trắng hoặc nâu và trắng. Hai màu này đan chéo nhau, tạo thành ô vuông nhỏ, trải dài khắp mặt khăn và có lẽ rằng những lằn ngang dọc ấy là gốc gác của tên gọi khăn rằn. Chiếc khăn rằn có chiều dài khoảng chừng 1,2 m, rộng chừng 40-50 cm, không cầu kỳ, sặc sỡ mà rất đỗi bình dị, giản đơn .
Trước khi có sự gia nhập của những loại phục trang từ phương Tây thì chiếc khăn rằn đóng vai trò chủ chốt trong lối ăn mặc của những người dân xứ này. Không chỉ người lao động lam lũ, mà cả những điền chủ, người phong phú cũng sử dụng nó. Không chỉ có phụ nữ, mà phái mạnh cũng sử dụng loại khăn này. Phụ nữ vắt gọn khăn trên đầu, còn đàn ông cột ngang trán, chừa hai đuôi khăn nhô lên đầu, nút khăn nằm ở phía trước. Khăn cũng được quàng trên cổ, một đầu thả trước ngực, một đầu thả sau sống lưng. Đôi khi hai đầu được buông xuôi xuống phía trước, đi với bộ quần áo bà ba tạo ra sự nét đặc trưng rất duyên của dân cư Nam bộ .
Khi mái ấm gia đình nào có giỗ chạp, trong lúc lớp trẻ lăng xăng dọn bàn, nấu bếp để chuẩn bị sẵn sàng mời khách thì những cụ bà ngồi lại với nhau trên bộ ván ngựa trò chuyện về công ăn việc làm, về ruộng vườn, sức khỏe thể chất, đời sống mái ấm gia đình … Miệng móm mém nhai trầu, đôi lúc những bà lại lấy khăn đã quấn sẵn ở cổ quệt ngang miệng rồi liên tục câu truyện. Các cụ ông thì quây quần bên bàn trà hoặc quanh bàn cờ tướng, cũng áo bà ba, cũng khăn rằn vắt vai .
Nam giới khi làm việc đồng thường lấy khăn buộc ngang trán, lật ngửa hai đầu khăn đưa lên trời để ngăn mồ hôi không chảy xuống mặt mà cản trở công việc. Đến khi mệt, họ bước lên bờ đê, tìm gốc cây tựa lưng nghỉ mệt. Lúc này khăn mới được lột xuống để lau mồ hôi ở trán, ở mặt, ở cổ… Các cô gái trong khi cày cấy, hay gánh mạ trên đồng cũng thường quấn khăn ở cổ, nếu đổ mồ hôi thì sẵn có khăn lau ngay.
Phóng toTrong các dịp hiếu hỷ, người Nam bộ thường chọn áo dài khăn đóng làm lễ phụcRiêng trong những đợt nghỉ lễ thì phục trang của người dân Nam bộ tề chỉnh, ngay ngắn, lịch sự và trang nhã hơn. Bộ phục trang được xem là lễ phục phổ cập rất lâu rồi là bộ khăn đóng áo dài may bằng loại vải đắt tiền ( thường thì áo dài bằng xuyến hay lương đen, còn quần thì màu trắng bằng lụa hay vải ). Bộ phục trang này thường được mặc khi dự lễ cúng đình hay đám cưới, những dịp hiếu hỷ …
Trang phục lễ tang thường có màu trắng làm màu chủ yếu, vì đó là màu tang tóc. Vải để may đồ tang là loại vải thô, thưa mà dân gian thường gọi là vải tám. Vải này rất rẻ tiền, không bền, không đẹp, cốt để biểu lộ tình cảm của người đang sống so với người đã khuất với ý nghĩa cha mẹ hoặc ông bà mất rồi, con cháu quá đau buồn không thiết đến việc ăn mặc nữa. Áo tang phải được may trở sống ra ngoài. Con là nam thì đầu đội mũ rơm, nữ thì đội mấn, những người họ hàng thân thích thì chỉ quấn vòng khăn tang ngang đầu .
Ngày nay, đời sống đã đổi khác nhiều, xã hội tăng trưởng, đời sống cao hơn, nhu yếu mặc ấm đã được nâng lên thành mặc đẹp. Mặc dù vậy, chiếc khăn rằn và chiếc áo bà ba không hề mất đi mà nó vẫn đang sống sót, tạo thành nét đặc trưng riêng của người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long và là một dẫn chứng hùng hồn cho truyền thống văn hóa truyền thống của người dân xứ này .