Áo Tràng Vạt, tràng xiên, giao lĩnh[1] (chữ Hán: 交領, Giao Lĩnh; chữ Nôm: 長拔, Tràng Vạt) hoặc gọi tắt áo tràng là cách gọi một trong những lối y phục lâu đời trong tập quán Việt Nam. Cái tên Tràng Vạt xuất phát từ việc tràng áo xiên (tức cổ áo[2]) được tạo thành bằng cách ghép thêm vạt cả. Tràng Vạt thường được dùng như lễ phục, tế phục mặc phủ ra ngoài.
Kiểu áo này phổ cập vào thời phong kiến ở Nước Ta. Áo giao lĩnh là 1 dạng của áo trực lĩnh
Về trực lĩnh, trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn có ghi chép về sự kiện triều đình chúa Trịnh quy định y phục cho vùng Thuận Hóa (Mới chiếm được của chúa Nguyễn từ năm 1774):” Mùa xuân năm Bính Dần, đặt trấn phủ Nha môn ở Thuận Hóa. Bắt đầu từ tháng 7, tuyên dụ rõ rằng: Y phục bản quốc (Y phục triều Lê – Trịnh) có chế độ riêng, địa phương này trước đây cũng tuân theo quốc tục. Nay cung vâng Thượng đức, dẹp yên biên phương, trong ngoài thống nhất, chính trị và phong tục cũng nên như một. Các loại quần áo kiểu Khách (kiểu Trung Quốc) còn thấy phải đôi theo quy chế quốc tục (…) Đàn ông, đàn bà mặc áo trực lĩnh ngắn tay, ống tay áo rộng hẹp cho được tùy tiện. Áo thì từ hai bên nách trở xuống đều nên may khép lại (không xẻ tà), không được để mở, không được chiết eo. Riêng đàn ông nếu muốn mặc áo cổ tròn hẹp tay để tiện làm việc cũng được. Lễ phục dùng áo trực lĩnh ống tay dài, hoặc may bằng vải Thanh Cát, hoặc vải thâm, hoặc vải trắng tùy nghi”
Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức cho biết trước năm 1744 khi chúa Nguyễn Phúc Khoát ra lệnh cải cách y phục thì người Việt tại Gia Định:” vẫn tuân theo tập tục cũ của Giao Chỉ, người dân xõa tóc đi chân đất, nam nữ đều dùng áo trực lĩnh ngắn tay, áo may khép lại hai bên nách, không có quần, đàn ông dùng một khổ vải quấn quanh eo, đến dưới mông thì bó lại thắt vào vùng rốn, gọi là cái khố, đàn bà có loại váy quây không gấp nếp, đội nón lớn”
Thời nhà Lê Trung Hưng, trước năm 1744, người dân Đàng Ngoài và Đàng Trong đều mặc áo trực lĩnh. Các dạng áo trực lĩnh có ba kiểu chính : Tràng Vạt, Bù Long và áo cổ thìa .Sang đến thời chúa Nguyễn Phúc Khoát năm 1744 [ 3 ] thì có lệnh sửa đổi cách ăn mặc của người Đàng Trong, dùng áo năm thân cài khuy lập lĩnh ( cổ đứng ), bỏ váy mặc quần ( quý tộc mặc thêm xiêm thường phủ ngoài quần ). Ở Đàng Ngoài áo trực lĩnh liên tục xuất hiện cho đến khi nhà Nguyễn dẹp nhà Tây Sơn, thống nhất sơn hà .
Sách Minh Mạng chính yếu cho biết năm Đinh Hợi (1827) vua Minh Mệnh đã lệnh bắt phụ nữ từ sông Gianh trở ra miền Bắc phải theo trang phục như miền trong, nhưng mệnh lệnh đó không được thi hành nên đến năm Đinh Dậu (1837) vua lại ban dụ rằng: “Ngày trước, từ Linh Giang [sông Gianh] trở ra Bắc, dân vẫn mặc y phục như tục cũ. Đã ban dụ truyền lệnh sửa đổi theo y phục từ tỉnh Quảng Bình trở vào miền trong, để phong tục đồng nhất. Lại cho thời hạn rộng rãi, khiến dân được thong thả may sắm quần áo. Từ năm Minh Mệnh thứ 8 đến nay, đã mười năm rồi, vẫn nghe nói dân chưa sửa đổi. Vả lại, từ tỉnh Quảng Bình trở vào Nam, mũ khăn, quần áo đều theo cách của nhà Hán, nhà Minh, xem khá tề chỉnh. Theo phong tục cũ của người miền Bắc, con trai đóng khố, con gái mặc áo thắt vạt, dưới mặc váy. Đẹp xấu đã thấy rõ rệt. Có kẻ đã theo tục tốt, cũng có kẻ vẫn giữ nguyên thói cũ, phải chăng cố ý làm trái mệnh trên? Các tỉnh thần nên đem ý ấy mà chỉ bảo, khuyên dụ nhân dân. Hạn trong năm nay, phải nhất tề thay đổi. Nếu đầu năm sau còn giữ theo y phục cũ, sẽ bị tội”
Dưới thời Nguyễn, lối y phục tiền triều bị cấm, Bù Long và áo cổ thìa biến mất, Tràng Vạt chỉ còn dùng như loại áo thụng mặc cùng phong cân trong lúc tế lễ. [ 1 ] Nam giới mở màn mặc lập lĩnh nhưng nữ lưu phía bắc sông Gianh vẫn nhất nhất theo lối cũ. Áo tứ thân được xem là cải cách của áo Bù Long, liên tục sống sót đến đầu thế kỷ 20 nhưng yếm trong chỉ còn sắc trắng không thêu hoa văn, mặc váy đen ( thời Lê gọi quần không đáy, xống ). Cách mặc của tứ thân có 2 cách là buông vạt và buộc chéo vạt che nương. Các phong tục thời Lê là mặc áo trực lĩnh tích hợp đinh tự cân, chu lạp đính mao, bức cân đều bị giản lược những cụ thể trên mũ theo cổ lệ ( mục tiêu chống đối ngầm luật lệ triều Nguyễn ) để tích hợp với áo lập lĩnh. Những loại áo mũ thời lê chỉ còn Open tại tiệc tùng Bắc Bộ để tưởng niệm tiền triều
Đây là một loại áo rộng. Kiểu áo thời Lê vạt cả thường nhỏ hơn thân, ít khi xẻ tà hai bên hông nhưng sang thời Nguyễn luôn xẻ tà, vạt cả rộng bằng thân. Áo may dài tay, rộng tay ( 32 – 36 cm ). Thân áo dài tù ngang xương ống đồng đến chấm gót chân và may bằng năm – sáu tấm vải, không phân biệt giới tính. Theo thư tịch cũ minh họa thì đàn bà mặc áo phủ ngoài, bên trong là yếm che ngực. Phía dưới bụng quấn váy, buộc bằng thắt sống lưng nhuộm màu, hai đầu buông thả, nếu thân phận là hoa nương hoặc quý tộc thì phủ ngoài còn 1 lớp xiêm thường thêu hoa văn. Đàn ông cũng mặc áo ra ngoài quần hay khố. Vạt bên trái được kéo chéo qua ngực và bụng rồi buộc vào dưới nách áo bên phải, phân biệt với áo cổ thìa có gút buộc nằm ngang xương mỏ ác. Hiện vật trong một số ít mộ cổ như ở Nhật Tân, Tây Hồ hay ở mộ Đại tư đồ Nguyễn Bá Khanh ( Hưng Yên ) đã phát hiện một lượng áo Tràng Vạt .Đến thế kỷ 19 thì áo giao lĩnh không còn dùng như thường phục nữa mà chỉ sử dụng làm quan phục, tế phục. Trong dân gian thì gọi là áo thụng. Trong triều thì gọi là ” phổ phục ” hay ” bổ phục ” để những quan mặc ra bên ngoài cùng khi có đại tế hay vào chầu vua. Khi mặc áo thì đính thêm bố tử ở ngực và sống lưng để rõ phẩm ngạch. [ 4 ] Đại để là Thời Nguyễn, từ ” trực lĩnh ” cũng biến mất hẳn vì chỉ còn dùng loại trực lĩnh buộc vạt sang phía nách gọi là ” giao lĩnh ”
Áo tràng xưa chủ yếu may từ tơ tằm: sa, gấm, đoạn… Mùa hè trời nóng thì dùng sa/the, vải thanh cát (tơ thân cây chuối để dệt như cách sản xuất tại Philippin và tỉnh Okinawa-Nhật Bản do vị trí địa lý vùng nhiệt đới). Mùa đông thì dùng gấm, đoạn.
Xem thêm: Mộng mơ tà áo dài xứ Huế
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Source: thoitrangviet247.com
Category: Áo