Theo sử sách ghi lại, y phục rất lâu rồi nhất của người Việt, theo những hình khắc trên mặt trống đồng Ngọc Lũ cách đây khoảng chừng 2.500 năm, đã cho thấy hình ảnh phụ nữ mặc phục trang áo dài với hai tà xẻ. Sau này, Chúa Nguyễn Phúc Khoát, vị Chúa Nguyễn thứ 8 của chính quyền sở tại Đàng Trong, được xem là người có công sáng tạo và định hình chiếc áo dài Việt Nam như ngày này .
Nói như vậy để thấy, từ rất lâu, chiếc áo dài đã gắn bó quen thuộc với đời sống mỗi người dân Việt Nam. Ngày nay, không riêng gì vào những dịp lễ trọng đại như ngày Tết, đám cưới, cưới xin … mà trong đời sống hàng ngày, rất nhiều người Việt – cả nam và nữ – đều lựa chọn phục trang áo dài. Tại những cuộc thi hoa khôi hay trong những sự kiện triển khai thương mại, tiếp thị hình ảnh Việt Nam ở quốc tế, những nghệ sỹ, người mẫu luôn mặc áo dài dân tộc bản địa như một sự nhận diện : Tôi là người Việt Nam .
Nhưng trong thực tế, vẫn có những chuyện như một cô thí sinh hoa hậu Trung Quốc nhận áo dài là “trang phục truyền thống” của nước mình. Hay ngay các nhà thiết kế trong nước cũng có những “sáng tạo trời ơi đất hỡi” làm biến dạng chiếc áo dài truyền thống.
Mỗi lần như vậy, dư luận lại đặt câu hỏi : Làm thế nào để bảo toàn giá trị của chiếc áo dài dân tộc bản địa ? Hay vì sao đến giờ, áo dài Việt Nam vẫn chưa được công nhận là di sản văn hóa truyền thống ?
Năm 2013, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch từng khởi động “ Dự án chọn lễ phục nhà nước ” với mẫu lễ phục áo dài nữ nhận được 100 % quan điểm đống ý. Giữa năm 2020, hội thảo chiến lược khoa học “ Áo dài Việt Nam : Nhận diện, tập quán, giá trị và truyền thống ” được tổ chức triển khai nhằm mục đích nhìn nhận cặn kẽ hơn giá trị của áo dài, hướng đến việc giữ gìn và bảo tồn nó như một di sản .
Nhưng, xem ra như vậy vẫn là chưa đủ. Con đường đến với di sản của áo dài Việt Nam còn quá xa xôi. Bởi muốn kiện toàn hồ sơ để trình UNESCO, đầu tiên áo dài phải trở thành di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, phải là quốc phục về mặt văn bản pháp lý. Chúng ta không chỉ có một vật thể là chiếc áo dài, mà cần phải có các không gian dành cho nó, như là không gian thủ công của nghề may áo dài, không gian mặc áo dài, rồi không gian văn hóa của áo dài…
Thực tế là trong số 13 di sản văn hóa truyền thống phi vật thể của Việt Nam được UNESCO vinh danh, thì có đến hơn nửa di sản tương quan đến áo dài. Từ nhã nhạc cung đình Huế cho đến đờn ca tài tử, rồi hát xoan, ví giặm … đều sử dụng áo dài khi trình diễn ( nhiều trường hợp dùng áo dài thay cho áo tứ thân ). Mới thấy, hiếm có phục trang dân tộc bản địa nào góp thêm phần vào quy trình tôn vinh di sản văn hóa truyền thống phi vật thể nhiều như áo dài .
Do vậy, dù áo dài có hay không thuộc danh mục di sản thì giá trị vẫn là như nhau và trách nhiệm của chúng ta là phải bảo vệ. Mục tiêu của việc đưa áo dài vào danh mục di sản là nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng để bảo tồn tốt hơn. Bởi thực tế cho thấy, nhiều khi chính cộng đồng sở hữu – vì vô tình và thiếu hiểu biết – lại là đối tượng xâm hại di sản đầu tiên, dẫn đến những hậu quả đáng tiếc.
Trải qua thời hạn, vượt qua những giá trị đơn thuần về mặt loại sản phẩm sản phẩm & hàng hóa tiêu dùng, chiếc áo dài đã đạt đến tầm vóc mới – đó là loại sản phẩm văn hóa truyền thống đặc trưng mang đậm truyền thống dân tộc bản địa, là hình tượng tinh hoa văn hóa Việt, chứa đựng vẻ đẹp thuần khiết của tâm hồn Việt .
Ngay trong từ điển Oxford, từ “ Áo dài ” cũng được đưa nguyên bản thay vì bất kỳ một cái tên nào khác. Đó chính là sự định danh, chứng minh và khẳng định giá trị không hề trộn lẫn của áo dài Việt Nam trong mắt bè bạn quốc tế .
Vậy nên, chẳng có nguyên do gì để áo dài không trở thành Di sản, khi mà thời điểm ngày hôm nay, dù ở bất kỳ nơi đâu trên toàn cầu này, cứ hễ “ thoáng thấy áo dài bay trên đường phố / Sẽ thấy tâm hồn quê nhà ở đó ”. / .