Giáp trụ Việt Nam (越兵盔甲 hoặc 安南甲服: Việt binh khôi phục hay An Nam giáp phục) hay còn gọi là Võ phục là các loại giáp phục, mũ trụ được trang bị cho tướng lĩnh và binh sĩ thời phong kiến của Việt Nam và có thể là từ thời vua Hùng. Lịch sử hình thành những chiếc áo giáp lâu đời của Việt Nam đã tồn tại kéo dài hơn hai thiên niên kỷ. Tuy nhiên, do thiếu thốn về những thư tịch, tư liệu lịch sử và ngân sách cho các nghiên cứu khảo cổ học, những bằng chứng này đã trở nên hiếm hoi và cũng gây nên những tranh luận về hình dáng thật sự của những tấm chiến giáp này.
Những diễn đạt về giáp trụ Nước Ta được biết qua những di chỉ khảo cổ học, những ghi chép trong sử sách, những bức tượng, bức phù điêu, tranh vẽ thời xưa còn sót lại. Các loại áo giáp và mũ trụ được trang bị khá hạn chế trong quân đội ở Nước Ta thời xưa. Đại đa số vẫn là giáp loại nhẹ và được làm từ da thú vì ngân sách cho binh bị eo hẹp, không trang bị hết áo giáp cho ba quân. Ngoài ra, cách dụng binh của người Việt vẫn là đánh du kích, cơ động, đặt phục binh tiêu tốn địch nên những lực lượng coi trọng tính linh động, gọn nhẹ, chuẩn bị sẵn sàng tác chiến nhanh trên địa hình rừng núi, sông ngòi nên ít coi trọng việc trang bị áo giáp và mũ trụ bằng sắt cho binh lính .
Thời cổ đại[sửa|sửa mã nguồn]
Việc hoàn toàn không có các ghi chép lịch sử bản địa và thiếu các chi tiết trong các ghi chép của Trung Quốc về cùng thời đại đã khiến việc theo dõi sự phát triển của áo giáp ở Việt Nam thời kỳ đồ đồng và đồ sắt rất khó khăn. Thay vào đó, bằng chứng khảo cổ là nguồn duy nhất để nghiên cứu áo giáp Việt Nam cổ đại. Loại áo giáp phổ biến nhất được tìm thấy ở miền Bắc Việt Nam là hộ tâm kính (护心镜, hùxīnjìng), thực tế là một tấm kim loại hoặc gỗ hình vuông hoặc hình chữ nhật được gắn chặt vào ngực của chiến binh. Loại áo giáp này có thể giúp tăng khả năng bảo vệ tối thiểu trước các đòn chém và đòn liếc cũng như những mũi tên. Để bảo vệ chân tay, có những chiếc vòng bằng đồng và vòng đệm, đôi khi có hình dạng giống như nhiều vòng cuộn quanh cẳng tay và chân của người đeo mặc dù chúng được đúc thành từng mảnh. Ít phổ biến hơn là áo giáp dạng phiến, bao gồm các vảy kim loại nhỏ được gắn chặt với nhau để đồng thời tạo tính bảo hộ và tính linh hoạt.
Bộ giáp vảy sắt (giáp phiến) vẫn chưa được tìm thấy nhưng các vảy riêng lẻ đã được phát hiện với số lượng khá lớn. Mỗi chiếc cân chỉ có 2 lỗ để một đoạn dây chui qua, cho thấy phương pháp thiết kết có thể khác với các kiểu giáp trụ của Trung Quốc và Triều Tiên. Người ta vẫn chưa hiểu liệu các loại giáp lam và hộ tâm kiếng được sử dụng cùng nhau hay được đeo riêng biệt. Nhiều ý kiến cho rằng, Việt Nam là xứ nóng nên quân trang không có áo giáp, mũ trụ và nếu có thì cũng không phải trọng giáp hay cầu kỳ về kiểu dáng, chất liệu. Thế kỷ 3 đến thế kỷ 19 thì trái ngược với thời kỳ cổ đại, những bằng chứng vật chất của thời kỳ Trung cổ và Tiền hiện đại của Việt Nam được tìm thấy cho đến nay là cực kỳ hiếm. Kiến thức về sự tồn tại của họ hầu như chỉ có được thông qua các miêu tả trong các văn bản và nghệ thuật lịch sử.
Bạn đang đọc: Giáp trụ Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt
Thời phong kiến[sửa|sửa mã nguồn]
Giáp trụ tuy không được trang bị phổ biến trong quân đội Đại Việt nhưng vẫn có và xuất hiện khá sớm. Sử nhà Tống cho biết vào năm 981, nhà Tống chiến thắng An Nam và thu hàng vạn bộ áo giáp làm chiến lợi phẩm. Trong giai đoạn tiền Lý và nhà Lý sau này áo giáp và mũ trụ đã được trang bị cho quân đội. Tống sử có chép: “Trận chiến giữa Tống và Đại Cồ Việt năm 981, quân Tống chiến thắng và thu được 200 chiến thuyền cùng 1 vạn bộ giáp trụ của Đại Cồ Việt“. Sách Toàn thư cũng ghi lại: “Mùa xuân năm 1002, vua Lê Đại Hành xuống chiếu chế tạo hàng nghìn mũ trụ cho sáu quân“. Áo giáp được chế tạo từ nhiều loại vật liệu khác nhau. Vật liệu được biết đến nhiều hơn là sắt và da. Lãnh binh Nguyễn Nộn mặc một bộ đồ bằng sắt nhưng đã không bảo vệ được ông khỏi một cú đâm vào lưng.
Giáp trụ của một hộ pháp trong Linh Phong Thiền tự ở Bà Nà
Các loại giáp trụ chỉ được trang bị cho tướng lĩnh và một số đội quân tinh nhuệ, vào năm 974 vua Đinh Tiên Hoàng định ra Thập đạo quân, lệnh cho binh lính các đạo đều đội mũ Tứ Phương Bình Đính, mũ này được mô tả là “làm bằng da, đỉnh mũ phẳng, bốn bên khâu giáp lại, trên hẹp, dưới rộng“, kiểu dáng mũ này đến thời Hậu Lê vẫn còn dùng, chiếc mũ này được sử dụng trong thời gian khá dài, từ nhà Lý đến nhà Hậu Lê và được xem là một loại mũ quân trang. Ngoài một ít giáp trụ dùng cho chỉ huy, đại đa số quân binh nhà Lý vẫn lưu giữ tục cởi trần, đóng khố xưa khá giản tiện cùng với việc xăm mình rất phổ biến từ triều Lý đến triều Trần.
Vào thời nhà Trần, phục trang quân đội không có sự đổi khác nhiều và vẫn thừa kế từ triều Lý và những triều đại trước. Các loại giáp trụ cũng không có sự nâng cấp cải tiến hay biến hóa rõ ràng vì Đại Việt chỉ là nước nhỏ, dân nghèo. Trong khi đó, để sản xuất áo giáp và mũ trụ, nhất là những loại trọng giáp rất tốn kém và yên cầu phải có trình độ luyện kim khá cao. Đến triều Hậu Lê, cùng với việc cải cách phục trang của vua và bá quan, quân phục quân đội nhà Hậu Lê cũng Open một số ít mẫu mã áo, mũ và giáp trụ mới. Năm 1470, vua Lê Thánh Tông hạ lệnh cấm dân gian sản xuất và kinh doanh những loại nón dùng trong quân đội như nón màu trắng ngà, nón da, nón Thủy ma và nón son của quân túc vệ .
Thời vua Lê Hiến Tông quy định rằng quan võ tứ, ngũ phẩm thì đội nón bạc, quan võ lục phẩm trở xuống đội nón son. Các đơn vị quân cấm vệ đều đội mũ bạc, có thể có những loại trang sức như ngù lông đỏ, hoa quỳ vàng, hoa quỳ đỏ gắn trên trán và tai mũ. Các loại giáp trụ thời kỳ này hiện có quá ít tư liệu mô tả về kiểu dáng, chất liệu. Chỉ còn căn cứ vào các lăng mộ của vua quan tướng lĩnh triều Lê đều có tượng tướng sỹ mặc giáp trụ đứng canh gác, mô thức tạo tượng gần như đồng nhất. Điều này cho thấy quân trang của binh lính triều Lê có quy chế về giáp trụ riêng biệt của triều đại mình.
Nhà Nguyễn thì đã phục trang cho quân đội được quy chuẩn hóa hơn so với những triều trước. Các loại áo giáp không còn được sử dụng do thời này hỏa khí đã Open khá phổ cập dù còn thô sơ. Trước sức mạnh của hỏa khí, đặc biệt quan trọng là pháo binh thì áo giáp gần như không còn nhiều công dụng bảo vệ cho binh lính trên mặt trận nên đã bị loại hẳn ra khỏi trang bị cho quân đội. Triều Nguyễn có lao lý khá rõ ràng quân phục cho những sắc lính và độc lạ giữa võ quan và binh lính. Quân cấp dịch ở tỉnh gọi là tỉnh binh, đội nón nứa, nón nhỏ chỉ đủ che đầu, quết sơn màu vàng, chỏm cắm lông gà. Áo dùng loại dệt len màu đỏ, viền màu lục, ống tay màu lục. Lính ở phủ, huyện gọi là phủ binh, huyện binh, đội nón quết sơn màu lục, màu đen, cắm lông gà, áo sùng vải đen, viền đỏ, ống tay màu đỏ .
Một sự kiện tranh cãi về tạo hình giáp trụ ở Nước Ta có hình dáng như thế nào bắt nguồn tư Khu du lịch Đại Nam của ông Huỳnh Uy Dũng. Trước đó, trên mạng Viral một số ít hình ảnh tượng binh lính thời phong kiến được chuyển từ Tỉnh Bình Dương về Đà Lạt trên những xe tải lớn. Các tượng này được chia làm 3 nhóm, đều mang vũ khí, mặc quân phục body toàn thân phủ màu nhũ vàng, mặc quân phục có xe màu nhũ vàng và đỏ, mặc áo vải. Cộng đồng mạng cho rằng đây là những bức tượng mô phỏng ” đội quân đất sét ” dưới hầm mộ Tần Thủy Hoàng, 1 số ít quan điểm đặt nghi vấn chủ góp vốn đầu tư đang kiến thiết xây dựng một Tử Cấm thành kiểu Trung Quốc, hoặc đang tổ chức triển khai kinh doanh thương mại du lịch tâm linh có yếu tố Trung Quốc [ 1 ] .
Đội quân giáp trụ ở KDL Đại Nam, những chiếc khiên của từng tượng quân sĩ đều có hoa văn hình chim Lạc
Sau đó, Công ty CP Tập đoàn Liên Minh cho biết 230 tượng lính này được mua từ khu du lịch Đại Nam. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lâm Đồng yêu cầu trả các tượng lính canh về lại khu du lịch Đại Nam. Ông Huỳnh Uy Dũng nói: “Trả thì tôi nhận thôi, việc này không quan trọng lắm. Nhận về tôi cho anh em đập bỏ lấy sắt bán phế liệu. Nưng không thể nói những tượng lính này nghi là tượng lính Trung Quốc được. Trống đồng là biểu tượng thiêng liêng, thấy mặt trống đồng là biết là dân tộc Việt Nam. Toàn bộ tượng lính này đều do tôi cho đúc, lấy ý tưởng từ một người lính giữ thành“[2].
Vào năm 2007, khi đang kiến thiết xây dựng khu du lịch Đại Nam, có ý tưởng sáng tạo đúc những tượng lính canh để trên tường thành, với ý nghĩa là người lính bảo vệ trường thành. Thời điểm này, đã đúc khoảng chừng 240 tượng lính với ý tưởng sáng tạo một người lính giữ thành với khá đầy đủ áo giáp, nón mũ và khiên chống tên, những người lính canh giữ thành đều phải đương đầu với cung tên nên cần phải có áo giáp, nón mũ và khiên để chống tên. Hình tượng người lính mặc áo giáp ở đâu cũng giống nhau, ở mặt tấm khiên đều là hoa văn từ mặt trống đồng, hình tượng của dân tộc bản địa Nước Ta, những tượng lính này được đúc bằng bê tông, hoa văn trên tấm khiên phác họa từ hoa văn trống đồng của Nước Ta [ 2 ] .Số tượng lính giữ thành trước đây được khu du lịch Đại Nam làm, đặt ở trên nóc của khách sạn thành Đại Nam. Sau đó, do nhu yếu để duy tu sửa chữa nên số tượng được đưa xuống để ở trong vườn [ 3 ]. Sau một thời hạn, nơi đặt tượng bị thấm nước, nơi này cũng được kiến thiết xây dựng khách sạn Đại Nam nên đã đưa hàng loạt số tượng lính để vào bãi phế liệu, thời hạn đầu để ngoài bãi phế liệu, 1 số ít người quen xin vài tượng lính về chưng cho đẹp, còn lại, cũng đã có dự tính đập hàng loạt số tượng này để lấy sắt bán phế liệu nhưng khi phía công ty tại Lâm Đồng xin mua thì đã cho bán thanh lý [ 2 ] với giá chỉ 1 triệu đồng / tượng và đã mua 230 tượng và mới luân chuyển hơn 60 tượng nhưng bị trầy xước, hư hỏng nhiều [ 4 ], ông Dũng đã đã nhu yếu kế toán chuyển lại 57 triệu đồng cho người mua tượng lính giữ thành [ 3 ] .
Những hình ảnh đều cho thấy đây thực sự là người lính ngày xưa mặc áo giáp và do những người lính trước đây đều sử dụng cung tên nên phía trước có tam khuyên, phía trên tam khuyên có biểu tượng của hoa văn chim lạc in nổi, tương tự như trên trống đồng Đông Sơn mang truyền thống, văn hóa dân tộc Việt Nam do đó, việc một số ý kiến cho rằng đây là tượng đất mô phỏng tượng quân lính Trung Quốc thời Tần Thủy Hoàng là hoàn toàn không đúng, sai vấn đề[4]. Nhưng một số chuyên gia cũng lên tiếng phê phán về số tượng lính giữ thành nói trên ở KDL Quỷ Núi gây ra nhiều ý kiến trái chiều, được dư luận quan tâm[3]. Theo giáo sư sử học Lê Văn Lan thì “Những bức tượng được dư luận quan tâm trong những ngày qua không có tính Việt Nam một chút nào. Ở bất cứ lát cắt thời gian nào, tại Việt Nam cũng không tồn tại những người lính, chiến binh như thế này. Hoạ tiết chim Lạc được ráp vào một cách rất ngô nghê, cũng không phải là nguyên bản trên trống đồng của Văn hoá Đông Sơn thời Hùng Vương“[2].
Source: thoitrangviet247.com
Category: Áo