Về bài thơ Áo đỏ của Vũ Quần Phương

Nhà thơ Vũ Quần Phương kể lại với nhiều người, đầu năm 1973, tiếng bom của cuộc cuộc chiến tranh phá hoại vừa tắt nhưng TP.HN còn bộn bề đổ nát. Những dòng người trên những con phố lầm lụi một màu xanh và xám, màu của phòng không. Đang chờ cắt tóc ở phố Khâm Thiên, chợt một cô áo đỏ đạp xe qua, làm bao nhiêu ánh mắt ngoái lại, sững sờ. Và chắc sững sờ nhất là nhà thơ Vũ Quần Phương …
Tôi không biết chắc bài thơ viết vào năm nào, nhưng biết chắc nó được in trong tập thơ Vầng trăng trong xe bò ( NXB Văn học, 1988 ). Và đã in báo trước đó vài năm. Nguyên văn bài thơ như sau :
ÁO ĐỎ

Áo đỏ em đi giữa phố đông

Cây xanh như cũng ánh theo hồng
Em đi lửa cháy trong bao mắt
Anh đứng thành tro em biết không ?

Về màu đỏ và áo đỏ

Bằng trực quan sinh động, từ rất lâu rồi con người đã đồng nhất màu đỏ với màu lửa, màu máu, màu của mặt trời. Và nó thành tượng trưng cho tính cách can đảm và mạnh mẽ, nhiệt huyết rực cháy, niềm tin cách mạng, sự quyết tử, tình yêu và sự hết mình. Nhiều nước chọn màu đỏ làm màu cờ để chứng minh và khẳng định sức mạnh dân tộc bản địa, khẳng định chắc chắn lấy máu để bảo vệ tự do. Khi chưa biết quang phổ ánh sáng mặt trời, người ta đã cho là màu đỏ gắn với sức mạnh. Đó là một nhận thức đúng chuẩn về mặt khoa học : Ánh sáng đỏ là ánh sáng có bước sóng dài nhất, mang nguồn năng lượng lớn nhất, thuận tiện xuyên qua khí quyển toàn cầu. trái lại, ánh sáng tím yếu nhất, thường giữ bị giữ lại ngoài tầng khí quyển. Còn lam, chàm thường bị dùng dằng, đùn đẩy ở tầng khí quyển, khúc xạ, tán xạ bởi bụi và nước làm ra màu xanh thơ mộng của khung trời. Cho nên “ Trời ” không phải “ Ông Xanh ” – Không phải trời xanh đâu mà xanh vì ánh sáng / Sự tán xạ lam chàm lên khí quyển / Ra khỏi khí quyển này, trời lại trắng như không .
Trong văn chương cổ xưa Nước Ta, có lẽ rằng Chinh phụ ngâm có câu thơ hay nhất về áo đỏ Quân xuyên phục trang hồng như hà / Quân kỵ kiêu mã bạch như tuyết ( Áo chàng đỏ tựa ráng pha / Con Ngữa chàng sắc trắng như là tuyết in ). Đó là hình ảnh kiêu hùng, lãng mạn của người chinh phu trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, một hình ảnh ước lệ được đồng nhất với những vẻ đẹp kỳ tuyệt của vạn vật thiên nhiên. Áo bào đỏ xông pha giữa trận tiền kéo theo sức mạnh của cả đoàn quân …
Theo phong tục của Nước Ta và 1 số ít nước đồng văn thì áo đỏ là áo của cô dâu. Nó lên sự nồng nàn của tình yêu và sự khêu gợi, mê hoặc đầy huyền bí của người phụ nữ. Đó là màu của niềm hạnh phúc, của những kỳ vọng không khi nào tắt. Thơ Lưu Trọng Lư trước Cách mạng, bài “ Nắng mới ” có câu : Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội / Áo đỏ người đưa trước dậu phơi. Có người đã nhầm rằng, áo đỏ là áo trẻ nhỏ. Mẹ Lưu Trọng Lư là vợ lẽ, dưới chính sách phong kiến vui ít, buồn nhiều, lại bị nhiều tầng đè nén, thậm chí còn bỏ rơi ( Chập chờn sống lại những ngày không ), nên mỗi hè về, có nắng mới, phơi cái áo đỏ ngày cưới như phơi lên kỷ niệm và thắp sáng kỳ vọng tươi mới của mình. Câu thơ lặng lẽ, người phụ nữ phơi áo hàng rào mà xốn xang, xúc động, bao ý niệm bên trong !
Và có lẽ rằng vì cái áo đỏ khêu gợi chăng, nên những kỹ nữ Trung Quốc cũng thường mặc áo đỏ. Thơ Bạch Cư Dị “ Thay lời gái bán củi khuyến mãi ngay kỹ nữ ” có câu : Áo hồng cưỡi ngựa người chi đó / Tiền Đường sớm sớm cứ phất phơ ( Nhất chủng Tiền Đường giang bạn nữ / Trước hồng kỵ mã thị hà nhân ? )
Nguyễn Bính cũng từng viết về áo đỏ : Có nàng áo đỏ đi qua đấy / Hương đượm ba ngày hương chửa tan ( Mùa đông đan áo ). Cô áo đỏ này hẳn là người thị thành, không phải gái quê mặc áo tứ thân và khăn mỏ quạ. Tôi không suy diễn vì cô gái đan len này đã thị thành, lại được lặp lại trong bài thơ Người con gái ở lầu hoa :
Nhà nàng ở gốc cây mai trắng
Trên xóm mai vàng dưới đế kinh
Có một buổi chiều qua lối ấy
Tôi về dệt mãi mộng ba sinh
Nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn kể lại trong sách “ Nguyễn Bính và tôi ” thì người con gái này ở phố Bạch Mai, TP. Hà Nội, tên là Nguyễn Thị Tuyên, mà những nhà thơ gọi cho đẹp là Tú Uyên, em gái của nhà văn Nguyễn Đình Lạp ( 1913 – 1952 ). Nguyễn Đình Lạp là một cây phóng sự xuất sắc, là tác giả của tiểu thuyết Ngoại ô và Ngõ hẻm. Chú ruột Nguyễn Đình Lạp là nhà cách mạng Nguyễn Phong Sắc ( 1902 – 1931 ), người đảng viên cộng sản tiên phong của chi bộ cộng sản tiên phong trong nước ( 7-3-1929, xây dựng tại 5 D Hàm Long, Thành Phố Hà Nội ) ; người Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ tiên phong, người chỉ huy Phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh .
Cũng trong Phong trào Thơ mới, một áo đỏ ám ảnh là của T.T.Kh. trong Bài thơ thứ nhất :
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm thế nào lạnh rất nhiều .
Nếu áo đỏ trong thơ Nguyễn Bính là một phẩm chất mới, một thời đại mới thì áo đỏ của T.T. Kh. là áo cô dâu, là thiếu nữ trinh nguyên, sự thuần khiết của quá khứ mà lòng người muốn giữ lại. Nên “ áo đỏ sang nhà khác ” được nhìn nhận như một sự mất mát, gợi buồn, làm lạnh cả ngọn gió !
ve bai tho ao do cua vu quan phuong
Trong kháng chiến chống Mỹ, có một màu áo đỏ rực rỡ thủy chung trong thơ Nguyễn Mỹ. Nếu mặt trời không nguôi tắt nắng thì không chỉ cô gái hậu phương mà cả nước đã cháy lên một ngọn lửa tình yêu bất diệt, thắp sáng một niềm tin tất thắng. Màu đỏ chói ngời trong buổi chia tay không phải từ màu áo mà từ trái tim của cô gái và của người chiến sỹ, của tác giả là người được tận mắt chứng kiến. Và thật ra là cả của một thời đại. “ Bắt ” được cái thần ấy, bài thơ trở nên ám ảnh. Từ ngữ không có gì lạ. Trần Đăng Khoa từng nói, thơ hay có ba điều : đơn giản và giản dị, xúc động và ám ảnh. “ Cuộc chia tay màu đỏ ” của Nguyễn Mỹ được viết năm 1964, trong thực trạng cuộc chiến tranh. Thời ấy nằm lòng trong tim chiến sỹ, nay còn lay động nhiều lớp tuổi teen. Nguyễn Mỹ đã nén thêm vào áo đỏ một nồng độ tình yêu làm rực rỡ tỏa nắng cả vạn vật thiên nhiên, nén vào màu đỏ niềm kỳ vọng mà mọi thời hạn, mọi thế lực đen tối không hề xóa nhòa :
Đó là cuộc chia tay chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai hồng
Trưa một ngày sắp ngả sang đông
Thu, bỗng nắng vàng lên bùng cháy rực rỡ .
Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa
Chồng của cô sắp sửa đi xa
Cùng đi với nhiều chiến sỹ nữa
Chiếc áo đỏ rực như than lửa
Cháy không nguôi trước cảnh chia tay …
Cái màu đỏ như màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi

Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người

Sẽ là ánh lửa hồng trên nhà bếp
Một làng xa giữa đêm gió rét …
Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi
Như không hề có cuộc chia tay …
Vào năm 1987, nhà thơ Phạm Tiến Duật có bài Áo đỏ em đi trong chiều tuyết trắng :
Tất cả đã trở lại màu xám
Chỉ còn em và tuyết đối nhau thôi
Tuyết thì trắng chưa khi nào trắng thế
Còn áo em rực đỏ giữa trời
Bởi như thế em trở thành ngọn lửa
Ấm một vùng tuyết lạnh xứ xa xôi …
Bài thơ khởi đầu rất thích khi cho ba màu như ba phạm trù trái chiều, thật ra chỉ có hai : màu đỏ của áo và màu trắng tận cùng của tuyết. Chết và sống ; hiện hữu và hư vô ; điểm và diện … ; bài thơ như một bức tranh tuyệt đẹp. Chỉ tiếc hai câu sau, theo tiêu chuẩn thường thì không phải không hay, nhưng xem ra nó cũng dễ hiểu quá, tầm thường quá so với sự khởi đầu. Thậm chí, hai câu sau hoàn toàn có thể cắt .
Áo đỏ trong thơ còn nhiều lắm. Nó vui như “ Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon ” hay nghiêm trang như “ Một cụ già râu tóc trắng như bông / Mặc áo đỏ cầm hương đi trước đám ” của Đoàn Văn Cừ. Và buồn như một nỗi thất tình, một cảm nhận mưa sa gió táp : ” Áo đỏ em về trong ngõ trưa / Chiều nay lành lạnh gió sang mùa / Hoa đăng hội ngộ tình thương nhớ / Em hãy về đây kẻo gió mưa ” …

Câu thần cú của Vũ Quần Phương và cái chết trở nên bất tử

“ Nhãn tự ” hay “ từ khóa ” đa phần của bài thơ “ Áo đỏ ” của Vũ Quần Phương chính là áo đỏ. Dứt khoát đây là bài thơ làm xong mới đặt đầu đề và đầu đề không hề không lấy cái nhãn tự ấy, cũng như câu thơ không hề không khởi đầu bằng từ “ áo đỏ ”. Đây là sự va đập can đảm và mạnh mẽ nhất làm nẩy bật lên xúc cảm và ý tứ của bài thơ .
Tại sao “ áo đỏ ” lại tạo nên ấn tượng can đảm và mạnh mẽ và lạ lùng như vậy so với nhà thơ ? Tôi chắc như đinh rằng, vào thời gian này ( năm năm ngoái ), Vũ Quần Phương ( hay bất kỳ nhà thơ nào khác ) khó có cảm hứng để làm được thơ về người áo đỏ chứ chưa nói để có câu thơ hay, bài thơ hay .
Suốt một thời kỳ cuộc chiến tranh lê dài, cả nước phải tập trung chuyên sâu cho một trách nhiệm gần như duy nhất : “ Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược ” thì cả nước thống nhất đến gần như như nhau. Cái tôi lặn vào cái ta. Tự do cá thể phải quyết tử cho tự do của Tổ quốc. Con người cũng như đời sống nằm trong một khuôn thước nhất định. Sau giải phóng miền Nam hai năm, năm 1977 tôi mới được trở ra Bắc. Trước đây sống quen, không có cảm nhận gì rõ ràng. Nhưng lần ấy nhìn đường phố Thành Phố Hà Nội tối sẩm cả mặt mày vì chỉ rặt một màu xanh và xám, người TP.HN vẫn gò sống lưng trên những chiếc xe đạp điện cũ càng, sao mà thương đến thế ! Cái cổng pa-ra-bôn của ĐH Bách khoa được coi như biểu lộ của kiến trúc tân tiến. Nhìn những nhà ở tập thể chỉ như những cái chuồng, tôi không hiểu sao con người lại hoàn toàn có thể nhốt mình cả đời vào đó …
Áo đỏ của Vũ Quần Phương quay trở lại hình tượng nguyên thủy của nó là ngọn lửa. Ngọn lửa này ngang nhiên cháy lên giữa con phố chính TP.HN, không sợ máy bay giặc, không sợ khuôn thước chật hẹp của cuộc sống. Nó chứng minh và khẳng định cái mới đã sinh ra, cái mới đang lên. Nó không những không sợ cái cũ mà sự can đảm và mạnh mẽ, bùng cháy rực rỡ của nó tỏa rạng, kéo theo sự biến hóa của chung quanh ( cây xanh như cũng ánh theo hồng ). Ai từng biết nhà thơ Vũ Quần Phương, đều thấy ông là người mực thước. Lúc này ông đã có vợ con và hẳn ngại trò chuyện yêu đương. Vậy mà ông dám “ ngang nhiên ” hạ bút viết Anh đứng thành tro em biết không tức là đã thú nhận mình đa tình, mình chevigai ( chết vì gái ) rồi còn gì ! Tức là ông không sợ vợ nữa ! Nếu coi đây là một bài thơ tình thì đúng vậy. Trước cái đẹp thì tình yêu phải đến, trước tình yêu thì phải cháy hết mình !
Thơ đa nghĩa, văn chương đa nghĩa. Tôi nghĩ cần hiểu thêm đây là bài thơ mang tâm thức thời đại. Và câu cuối chính là “ thần cú ” biểu lộ nhận thức và thái độ của nhà thơ. Ba câu đầu chỉ là quan sát, có chút nghĩ ngợi, liên tưởng. Trong thơ, người ta thấy mình nghĩ là tầm thường ; lấy lời lẽ mà giảng giải là vô duyên. Tự cháy bằng cảm hứng mới là đạt. Còn bất thần bất hài hòa và hợp lý mà càng nghĩ, càng hài hòa và hợp lý, càng đúng với nhiều người, càng ám ảnh mãi thì đó là thần tình. Câu sau cuối của Vũ Quần Phương trong bài thơ này đạt độ thần tình, làm cho cánh thơ bay vút lên. Nếu không có câu cuối, cả bài thơ chẳng có gì đáng nói. Hàng cây xanh chỉ ánh hồng lên giây lát ; ngọn lửa cháy lên trong bao mắt … dù sao cũng còn bị động ; còn nhà thơ từ một ảnh hưởng tác động khách quan, đã tự cháy lên, cháy hết. Một nồng độ cao, một số lượng chuyển thành chất lượng. Ta thấy cái mới không ở ngoài, mà ở chính trong nhà thơ. Đó chính là khát vọng tự do, khát vọng thay đổi, thay đổi triệt để ; là yêu sống, ham sống ; là mong mỏi được làm con người khác ; là thiêu rụi mọi ràng buộc cũ xưa .
Thơ tứ tuyệt, người xưa gọi là tuyệt cú là bài thơ thường có bốn câu, có khi ba câu, có khi năm, sáu câu .
Có những bài cả bốn câu hay cả và cùng đối nhau như một bức tranh tứ bình. Thí như bài Tuyệt cú của Đỗ Phủ Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu / Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên / Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết / Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền. Nhưng thường thì người ta chỉ dùng những câu đầu làm dẫn. Sự giật mình, đỉnh điểm là ở câu ba và bốn ; phổ cập là ở câu kết sau cuối. Chẳng hạn như bài Uống rượu xem hoa mẫu đơn của Lưu Vũ Tích : Hôm nay uống rượu ngắm hoa / Cạn đôi ba chén gọi là mua vui / Chỉ e hoa nói nên lời / Em không phải nở cho người già nua ( Tản Đà dịch ). Khủng khiếp hơn là bài Lũng Tây hành của Trần Đào với hai câu cuối Khả liên Vô Định hà biên cốt / Do thị xuân khuê mộng lý nhân. Nghĩa là : Thật đáng thương thay cho tình cảnh : Người lính đã chết chỉ còn nắm xương bên dòng sông Vô Định, vậy mà trong giấc mộng của người vợ trong phòng khuê vẫn còn là người ! Xin nói thêm một chút ít về thi pháp thơ Đường : Khả liên ( khá thương ) là thương cho tình cảnh, thương cho người lính đã chết hay thương cho người vợ ở nhà vẫn mơ về chồng ; hay hơn nữa là thương cho quốc gia đều đúng cả vì thường không dùng từ chỉ định, xác lập. Vô Định cũng hàm nhiều nghĩa. Vô Định là tên một dòng sông ở tỉnh Thiểm Tây, biên giới của Nước Trung Hoa với Hung Nô, một con sông hay đổi dòng nên gọi là Vô Định. Đồng thời nó cũng nói lên sự vô định, không có ý nghĩa của cuộc chiến tranh …
Bài thơ Áo đỏ của Vũ Quần Phương đạt mẫu mực của thi pháp tứ tuyệt .

Thơ nhại Áo đỏ trong đời sống

Một trong những tín hiệu quan trọng của câu thơ hay, bài thơ hay là tự nó hình thành một khuôn mẫu, hoàn toàn có thể lắp ghép được bằng những cấu kiện khác. Nói nôm na là hoàn toàn có thể nhại được. Một dạo sau khi được in, lập tức có thơ chế rằng :
Váy ngắn em đi giữa phố đông
Hỏi rằng anh có thấy gì không
Mỗi lần váy cuốn theo chiều gió
Anh thấy hình như có cả …
Bài trước không biết của ai, nhưng nghe nói dị bản sau là của nhà thơ Quang Huy ( mà không khéo của chính Vũ Quần Phương ) :
Váy ngắn em đi giữa phố đông
Hỏi rằng anh có thấy gì không
Bao nhiêu tôm cá bày ra cả

Anh đứng thành tro em biết không?

“ Bao nhiêu tôm cá bày ra cả ” là câu thơ của nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn trong bài “ Chợ cá Hội An ”. Người làm bài thơ này chắc là để trêu chị Nhàn. Âu cũng là một giai thoại văn học .
Tôi không chắc mình hiểu được hết ý nhà thơ, nói hết được cái hay của bài thơ. Biết gì nói nấy, mạo muội trình bạn đọc, mong được lượng thứ vì những điều lỗ mỗ. / .
Nguyễn Sĩ Đại

Source: thoitrangviet247.com
Category: Áo

5/5 - (1 bình chọn)

Bài viết liên quan

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận