Áo ngũ thân là gì? Thông tin về áo ngũ thân – Vân Hạc Mộng

Áo dài ngũ thân là tên gọi chung cho trang phục của người nam và nữ dù kiểu cách áo dài ngũ thân của phụ nữ thường thướt tha, duyên dáng, áo dài của nam lại trang nghiêm, chững chạc. Áo dài ngũ thân là áo năm thân, vì khổ vải ngày xưa hẹp, vạt trước và vạt sau đều phải “nối sống”, may ghép hai thân vải với nhau; ngoài ra còn có một thân vải ngắn may nối với vạt sau, gọi là vạt con, khi mặc áo, vạt con nằm khuất dưới vạt trước.

Áo ngũ thân là gì? Đặc điểm nhận dạng.

Áo dài ngũ thân được hình thành từ thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, được xem là tiền thân áo dài ngày nay. Gọi là áo ngũ thân vì loại áo này được ghép bởi 5 vạt (5 thân) gồm 2 thân trước, 2 thân sau đối nhau ở trước ngực và sau lưng, thân thứ 5 ở phía trước nằm bên phải, trong thân thứ nhất.

Vì sao gọi là Áo ngũ thân? Ý nghĩa của Áo ngũ thân là gì?

Người Huế gọi là áo ngũ thân hay áo ngũ thể, với ý nghĩa tương truyền rằng, năm thân áo tượng trưng cho đạo lý cao đẹp của con người: bốn thân áo của vạt trước, vạt sau tượng trưng cho “tứ thân phụ mẫu”, thân trong tượng trưng cho người con. Áo ngũ thân cũng có năm nút, tượng trưng cho ngũ thường (nhân – nghĩa – lễ – trí – tín), ngũ luân (quân thần: vua – tôi, phụ tử: cha – con, phu phụ: chồng – vợ, huynh đệ: anh – em, bằng hữu: bạn bè). Mặc chiếc áo dài ngũ thân là mang trên mình đạo làm người, không được làm những điều trái luân thường đạo lý.

Áo dài ngũ thân nữ và nam may khá giống nhau, chỉ khác vài đặc điểm, như: cổ áo nữ thấp hơn namống tay áo nữ hẹp hơn ống tay áo namvạt áo nam dài hơn áo nữ. Áo nam và nữ đều có 5 cúc, hàng cúc chạy theo vạt bên trái, phía trước rồi xuống eo. Ống tay được may nhỏ gọn hơn ống tay của áo tấc, áo giao lĩnh nên còn gọi loại áo này là áo ngũ thân tay chẽn.

Áo dài ngũ thân được may hai lớp, gồm lớp bên ngoài và lớp lót bên trong, tự do, thuận tiện, ngăn nắp, kín kẽ khi mặc. Kiểu dáng, cấu trúc áo có công suất sử dụng cao, tạo cho người đàn ông có phong thái đĩnh đạc, oai phong. Với áo nữ hoàn toàn có thể tôn dáng, che khuyết điểm khung hình. Tuy vậy, may áo dài ngũ thân rất kỳ công, giá tiền lại cao hơn so với áo dài thường thì .
Áo dài ngũ thân cổ đứng khuy cài

Áo ngũ thân thời nhà Nguyễn có hai loại:

  • Thứ nhất là áo tấc, hay còn gọi là áo ngũ thân tay thụng, áo lễ, áo thụng, được mặc cùng với quần dài, che thân từ cổ đến hoặc quá đầu gối và dành cho cả nam lẫn nữ với cổ đứng cài cúc bên phải (của người mặc), tà áo chắp từ năm mảnh vải.
  • Thứ hai là áo tay chẽn, loại này thân áo cũng tương tự áo tấc nhưng phần đoạn vải được nối từ khuỷu tay tới quá cổ tay chừng 2cm thì đực may kiểu ống tay hẹp (bó chẽn). Hai thân trước của áo được để dài quá đầu gối chừng 5 – 7cm.

Giá trị của Áo dài ngũ thân

Cách may, mặc áo dài ngũ thân, nhất là với áo dài nam bộc lộ rõ các đặc tính : Khiêm nhường, kín kẽ, phong thái đĩnh đạc, thẩm mỹ và nghệ thuật tinh xảo. Sự tinh xảo còn bộc lộ trên kỹ thuật may, như ghép hoa văn chỗ sống áo thật khớp, đường kim thẳng, nhỏ, đều, có chỗ được giấu kín không thấy đường chỉ khâu. Đường tà lượn, chân vạt áo có đường cong hình cánh cung rất sôi động. Về góc nhìn mỹ thuật, các đặc thù tạo hình tà, cổ, khuy, tay áo đều được giám sát rất kỹ lưỡng vừa tương thích với công suất sử dụng vừa có thẩm mỹ và nghệ thuật. Trong các quy trình may áo dài ngũ thân, quy trình định hình của tà áo là quy trình phức tạp nhất, bởi khi chiếc áo hoàn thành xong, những yếu tố đẹp, xấu, cơ bản đều do quy trình này mà ra .

Điều ít biết về “Tiền thân của Áo dài”: chính là Áo ngũ thân (1744)

Ai có công khai sinh ra Áo dài?

Tiền thân của áo dài: Áo ngũ thân (1744)

Trước khi xuất hiện áo dài lập lĩnh (cổ đứng), trang phục phổ biến của người Việt là áo giao lĩnh (cổ chéo) và áo viên lĩnh (cổ tròn). Ngoài ra còn kiểu áo tứ thân phủ tà (gồm bốn vạt nửa và một tà khoát ngoài: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái và tà khoát ngoài bao bọc 4 vạt bên trong).

Kiểu áo do chúa Nguyễn Phúc Khoát đặt định là áo ngũ thân lập lĩnh (cổ đứng) cài khuy. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót (chỉ hở phần cổ trắng của áo lót). Mỗi vạt có hai thân nối sống (tổng cộng bốn vạt) tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ 5 chiếc khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ thường theo quan điểm Nho giáo và ngũ hành theo triết học Đông phương. Các kiểu áo cổ của phương đông xưa luôn có 1 đường may giữa ở vạt trước và sau áo gọi là trung phùng đạo, thể hiện Đấng quân tử nên tìm đạo lý, Kẻ trượng phu gìn kỹ tinh hoa, chính trực.

Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1744)

Với tham vọng lập quốc một cõi, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban hành cho mặc đối với những quan chức cấp cao để phân biệt họ với những người dân khác. Trong sắc dụ đó, người ta thấy lần đầu tiên sự định hình cơ bản của chiếc áo ngũ thân Việt Nam, như sau: “Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo lập lĩnh ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép…” (sách Đại Nam Thực lục)

Từ đó bèn biến hóa y phục, đổi phong tục, cùng dân thay đổi, khởi đầu hạ lệnh cho nam nữ sĩ thứ trong nước, đều mặc áo nhu bào, mặc quần, vấn khăn, tục gọi quần chân áo chít mở màn từ đây .
Hôn lễ so với dân thường Bắc Bộ, nữ đội hôn lạp, guốc cong, nam đội nón ngựa ( chóp nhọn ), xỏ hài, dâu rể mặc áo tấc có thêu hoa văn dạng bàn cổ. Hôn lễ với Nam bộ cô dâu và phù dâu đội nón gụ. Hôn lễ so với quý tộc, nữ kết kim ước phát, nam đội mũ theo bổ phục. Dân thường xỏ hài, guốc ; quý tộc xỏ hài cong ( giống như tích ), cung nhân xỏ guốc sơn son thiếp vàng .

Thời vua Minh Mạng (1828)

Cho đến thế kỷ 17 truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: “… áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay vốn đã có cổ tục như thế…”

Năm Minh Mạng thứ 9 ( 1828 ), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đphụ nữ bấy giờ mặc váy và bắt phải mặc quần hai ống, nên hồi ấy mới Open câu ca dao than vãn :

Tháng Tám có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng!

Các thời vua kế tiếp

Áo ngũ thân cổ đứng giúp tăng vẻ đài các, sang chảnh cho người mặc được biểu lộ qua hoa văn thêu truyền thống cuội nguồn. Áo lập lĩnh ( cổ đứng ) thuận tiện phối hợp với những đôi hài, tích, guốc cong, nón 3 tầm, xà tích, trâm và là áo mặc bên trong của những loại áo quý tộc ( nhật bình, bình lĩnh, mã quái, mã tiên, bàn lĩnh, giao lĩnh ) .
Đối với phụ nữ trước năm 1885, áo ngũ thân ( dài và rộng dần đến đầu gối ) được mặc phối hợp với trâm và nón cụ ( so với Huế và Nam bộ ), nón quai thao hay nón 3 tầm ( so với Bắc bộ ), được mặc phối hợp với quần đen hoặc quần đỏ. Sau thời vua Thành Thái, do bị Pháp cướp vàng bạc trong triều đình, áo ngũ thân tích hợp với khăn vấn, khăn vành dây và do bị Tây hóa nên mặc quần trắng .

Nếu như chúa Nguyễn Phúc Khoát có công khai sinh ra chiếc áo dài thì vua Minh Mạng có công đưa chiếc áo dài trở thành trang phục sử dụng phổ biến từ Bắc đến Nam, trong đó Huế giữ vị thế là kinh đô áo dài.

Vấn đề cải cách trang phục dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát và vua Minh Mạng không chỉ dừng lại ở hình thức mà còn phản ánh tinh thần thống nhất, tự chủ về văn hóa

Kinh đô Áo dài là đâu?

Huế – nơi sản sinh, nuôi dưỡng áo dài Việt

Năm 1744, sau khi lên ngôi xưng vương ở phủ chính Phú Xuân (Cố đô Huế)chúa Nguyễn Phúc Khoát đã ban hành nhiều chính sách, trong đó đề cập đến việc cải cách triều phục. Từ đó, chiếc áo dài trên đất Huế được chú trọng và trở thành trang phục chính của người dân ở vùng đất Đàng Trong. Nếu như Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát có công khai sinh ra chiếc áo dài thì vua Minh Mạng có công đưa chiếc áo dài trở thành trang phục sử dụng phổ biến từ Bắc đến Nam, trong đó Huế giữ vị thế là Kinh đô Áo dài.

Chuyện “Mặc Áo dài ngũ thân đi làm”

Mọi người thường mặc áo dài trong các dịp lễ, Tết, kể cả khi đón khách quốc tế .

Theo quy định, bắt đầu từ sáng ngày 7/9/2020, các nam công chức của Sở Văn hóa Thể thao tỉnh Thừa Thiên Huế đã chính thức mặc áo dài để đi làm. Theo quy định, bộ đồng phục này sẽ được mặc vào thứ Hai đầu tiên của mỗi tháng để góp phần xây dựng nét đẹp văn hóa và nhớ về trang phục truyền thống dân tộc.

Theo như quy định, mỗi tháng các nam công chức chỉ mặc một lần trong khi các nữ công chức thì đến 2 lần/tuần vào thứ Hai và thứ Sáu nên cũng không có gì bất tiện lắm. Chưa kể, với chất liệu và kiểu dáng thì ngay trong thời hiện đại này, chiếc áo dài ngũ thân vẫn khiến cho các nam công chức toát lên được vẻ ngoài lịch lãm, chỉn chu.

Sau khi được chia sẻ, cư dân mạng nhiều người đã cho rằng áo dài tuy rất đẹp nhưng ở thời hiện đại này có vẻ không phù hợp, dễ gây ra sự bất tiện. Chưa kể, thời tiết ở Huế khá nóng nên cứ mặc như vậy suốt cả ngày, lại còn đội khăn nữa thì sẽ gây ra sự khó chịu.

Thừa Thiên Huế mong muốn hướng đến xây dựng thương hiệu ‘Huế – Kinh đô Áo dài Việt Nam‘, đưa Áo dài đến gần hơn trong cộng đồng, đồng thời tạo tiền đề để các ngành chức năng xây dựng hồ sơ công nhận Áo dài truyền thống Huế là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; tiến tới đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Một số hình ảnh về Áo dài thời hiện đại:

Áo dài ngũ thân lúc bấy giờ được các bạn trẻ rất ưa thíchCác bậc cha mẹ lúc bấy giờ cũng hay góp vốn đầu tư áo ngũ thân cho con vào những dịp đặc biệt quan trọng

Bộ ảnh Tết cực xịn của một gia đình trẻ Việt Nam

Áo dài là chiếc áo truyền thống cuội nguồn, là niềm tự hào của người Việt. Không chỉ phái đẹp mà phái mạnh khoác lên mình phục trang này cũng rất đẹp và nhã nhặn .
Áo dài của phái mạnh đặc trưng có năm thân và năm nút, cổ áo đứng. Áo được phân thành nhiều loại khác nhau nhưng cơ bản có hai loại là áo dài tay thụng và áo dài tay chẹt, miền Bắc gọi là áo dài tay chẽn. Với ý nghĩa năm thân của áo dài thì đây là số tượng trưng cho trời đất, hoặc tứ thân phụ – mẫu và bản thân của mình. Năm nút áo tượng trưng cho ngũ thường của Nho giáo là nhân – lễ – nghĩa – trí – tín .
Đầu thế kỷ XX áo dài dần được cách tân do sự tăng trưởng của xã hội và văn minh phương Tây gia nhập vào đã chi phối lên phục trang của người Việt. Những nhà phong cách thiết kế đưa mẫu đồ Tây tích hợp vào chiếc áo dài, gọi là áo dài cách tân. Áo không còn rộng thùng thình mà được may nhỏ lại, được bóp eo, không còn may tay liền như áo dài truyền thống lịch sử, tà áo nhỏ vừa người …

Rate this post

Bài viết liên quan

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận