Thánh Anna – Wikipedia tiếng Việt

Đối với những định nghĩa khác, xem Anna

Anna, thuộc dòng dõi vua David, là mẹ của Maria và bà ngoại của chúa Giêsu theo các ngụy thư Kitô giáo và Hồi giáo truyền thống. Mẹ của Maria không có tên trong các sách phúc âm kinh điển, nhưng được đề cập là con gái của Faqud trong kinh Koran. Trong các văn bản, tên của Anna và chồng bà Gioakim chỉ xuất hiện trong ngụy kinh Tân Ước, trong đó Ngụy thư Giacôbê (có lẽ viết khoảng năm 150) là tác phẩm đầu tiên đề cập đến họ.

Giáo hội truyền thống lịch sử[sửa|sửa mã nguồn]

Câu chuyện mang nét tương đồng với sự ra đời của Samuel, có mẹ là Hannah (tiếng Hebrew: חַנָּה‎ Ḥannāh “ân huệ, ân sủng”; từ nguyên giống như Anna), một phụ nữ hiếm muộn. Mặc dù Anna nhận được rất ít sự chú ý trong Giáo hội Latinh trước khi đến cuối thế kỷ 12,[2] sự thờ phụng bà trong Kitô giáo Đông phương xảy ra ngay từ thế kỷ thứ 6.[3] Ở Chính thống giáo Đông phương và Công giáo Đông phương, bà được tôn kính như Hannah. Trong Chính thống giáo truyền thống, Hannah được gán cho danh hiệu Forebear of God (tạm dịch: Tổ tiên của Thiên Chúa), lễ sinh nhật của Maria và lễ Đức Mẹ dâng mình là hai trong mười hai Lễ lớn của Chính thống giáo Đông phương. Phái Kháng Cách, một tổ chức mà Martin Luther đã chọn để bước vào đời sống tôn giáo như một tu sĩ Augustine sau khi khóc với Thánh Anna lúc gặp nguy hiểm bởi sấm sét.[4][5]

Trong Hồi giáo[sửa|sửa mã nguồn]

Anna (Tiếng Ả Rập: حنة Ḥannah) cũng được tôn kính trong Hồi giáo, được công nhận là người phụ nữ thiêng liêng và là mẹ của Maria. Kinh Koran mô tả cô là con gái của Faqud, người vẫn không có con khi về già. Một ngày, dưới bóng râm của một cái cây, Hannah nhìn thấy một con chim đang nuôi con non, điều này đã đánh thức mong muốn có con của cô. Cô cầu nguyện để có một đứa trẻ và cuối cùng thụ thai; chồng cô, Imran, chết trước khi những đứa trẻ được sinh ra. Mong đợi đứa trẻ là con trai, Hannah thề sẽ cho cậu độc thân và phục vụ trong ngôi đền thứ hai.[N 1][6][7]

Tuy nhiên, Hannah sinh một đứa con gái, và cô ấy tên là Maria. Lời nói của Hannah khi sinh ra Maria phản ánh một điều huyền bí, cho thấy rằng trong khi cô muốn có một đứa con trai, thì cô con gái này là món quà của Thiên Chúa dành cho cô : [ 6 ] [ 7 ]

Nhưng khi nàng sanh xong, nàng bảo : ” Lạy Chúa, tôi đã sanh ra một bé gái – nhưng chuyện sanh nở thế nào, Ngài là Đấng biết rõ nhất ; Đứa con trai mà nàng ao ước không giống như đứa con gái mà nàng đã sanh – tôi đã đặt tên nó là Maria. Tôi xin Ngài gia hộ cho nó và cả con cháu của nó để khỏi bị quỷ Sa-tăng ám hại. ” Qur’an 3 : 37

Thánh Anna giáo dục Đức Mẹ) của Jean-Baptiste JouvenetBức tranh The Education of the Virgin ( Tạm dịch 🙂 của Jean-Baptiste JouvenetMặc dù những cuốn sách tầm cỡ của Tân Ước không đề cập đến mẹ của Maria, nhưng truyền thống lịch sử về mái ấm gia đình Maria hay thời thơ ấu, giáo dục, và lễ đính hôn với Giuse tăng trưởng rất sớm trong lịch sử vẻ vang nhà thời thánh. Nguồn truyền kiếp và có ảnh hưởng tác động nhất cho những điều này là ngụy thư Giacôbê, lần tiên phong được viết bằng tiếng Hy Lạp khoảng chừng giữa thế kỷ thứ hai. Ở phương Tây, ngụy thư Giacôbê đã bị hoài nghi trong thế kỷ 4 và 5, khi nó bị Giêrônimô cáo buộc là ” vô lý ” và bị Giáo hoàng Đamasô I, Giáo hoàng Innôcentê I, và Giáo hoàng Gêlasiô I lên án là không đáng đáng tin cậy. [ 8 ]Niềm tin cổ xưa, được xác nhận bởi một bài giảng của Gioan thành Damascus, rằng Anne đã từng kết hôn một lần. Ở cuối thời Trung cổ, lịch sử một thời cho rằng Anna đã kết hôn ba lần, tiên phong là Gioakim, sau đó đến Clopas và sau cuối là người đàn ông tên là Solomas và mỗi cuộc hôn nhân gia đình đều sinh ra một cô con gái : Maria, mẹ của chúa Giêsu, Maria Clopas, và Maria Salomæ, theo thứ tự tương ứng. [ 9 ] Em gái của Anna là Sobe, là mẹ của Elizabeth và bà ngoại của Gioan Baotixita .

Tương tự, trong thế kỷ thứ 4 và sau này trong thế kỷ 15, một niềm tin phát sinh rằng Anna sinh ra Maria bằng cách sinh trinh nữ, giữ gìn cơ thể và linh hồn của Anna nguyên vẹn, khác với học thuyết thụ thai tinh khiết mà giữ gìn cơ thể và linh hồn của Maria nguyên vẹn và vô tội từ giây phút đầu tiên của sự tồn tại.[10] Các tín đồ thế kỷ 16, trong đó có nhà thần bí Giáo hội Luther Valentin Weigel, tuyên bố Anna hình thành Maria bởi sức mạnh của Thánh linh chứ không phải cách thông thường qua quan hệ vợ chồng. Niềm tin này được xem như là sai lầm của Giáo hội Công giáo vào năm 1677. Trong thế kỷ 15, giáo sĩ Công giáo Johann Eck nói đến trong một bài giảng rằng cha mẹ của Thánh Anna được đặt tên là Stollanus và Emerentia. Bách khoa toàn thư Công giáo (Catholic Encyclopedia, 1907) coi phả hệ này là giả mạo.[10]

Nhà thờ Sainte-Anne de Beaupré, Quebec, CanadaTrong nhà thời thánh Đông phương, việc thờ phụng thánh Anna mở màn từ khoảng chừng năm 550, khi Justinian thiết kế xây dựng một nhà thời thánh ở Constantinople để vinh danh bà. Dấu hiệu sớm nhất của sự tôn kính Anna ở phương Tây là một bức bích họa thế kỷ thứ 8 trong nhà thời thánh Santa Maria Antiqua, Rome. [ 8 ]Virginia Nixon nhìn thấy một sự khuyến khích kinh tế tài chính trong việc tiếp thị địa phương với sự thờ phụng Thánh Anna để lôi cuốn những người hành hương. Việc xác lập Sepphoris là nơi sinh của Maria là một sự cạnh tranh đối đầu với một khu vực tựa như ở Jerusalem. Một ngôi đền ở Douai, miền bắc nước Pháp, là một trong những TT tiên phong của lòng sùng mộ Thánh Anna ở phương Tây. [ 12 ]Hai ngôi đền nổi tiếng thờ Thánh Anna là Sainte-Anne-d ‘ Auray ở Brittany, Pháp, và Sainte-Anne de Beaupré gần thành phố Québec, Canada. Số lượng khách đến nhà thời thánh St. Anne de Beaupré là lớn nhất vào Lễ kính Thánh Anna 26 tháng 7 và chủ nhật trước Lễ sinh nhật của Đức mẹ Maria, 8 tháng 9. Năm 1892, Giáo hoàng Leo XIII gửi một di tích lịch sử của Thánh Anna đến nhà thời thánh này. [ 13 ]

Trong ngôn ngữ Malta, thiên hà được gọi là It-Triq ta’ Sant’ Anna, nghĩa là “Con đường của Thánh Anna”.[14]

Ở Đế quốc Nga, Huân chương Thánh Anna là một trong những huân chương cao quý nhất của nhà nước.

Thánh tích được cho là của Thánh Anna được đưa từ Đất Thánh đến Constantinople vào năm 710 và đã được lưu giữ tại Nhà thờ Thánh Sophia vào cuối năm 1333. [ 10 ] Trong thế kỷ 12 và 13, những hiệp sĩ thập tự chinh trở lại hay khách hành hương đến từ phương Đông mang thánh tích của thánh Anna đến 1 số ít nhà thời thánh, trong đó có những nhà thời thánh nổi tiếng nhất là tại Apt, Provence, Ghent và Chartres. [ 8 ] Các di vật của Thánh Anna được dữ gìn và bảo vệ và tôn kính theo truyền thống cuội nguồn trong nhiều nhà thời thánh và tu viện mang tên thánh nhân, ví dụ ở Áo, Canada, [ 15 ] Đức, Ý [ 16 ] và ở Hy Lạp trong núi Athos và thành phố Katerini. [ 17 ]Düren, Đức trở thành khu vực hành hương chính của giáo dân sùng mộ Thánh Anna kể từ năm 1506, khi Giáo hoàng Giuliô II quyết định hành động rằng thánh tích của thánh Anna nên được giữ ở đó .

  1. ^ ” Lạy Chúa, tôi đã thề sẽ dâng đứa nhỏ trong bào thai này cho Ngài, xin Ngài hãy nhận nó. Ngài quả thật là Đấng hằng nghe tổng thể và biết toàn bộ. ” ( Qur’an 3 : 36 ) .

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Rate this post

Bài viết liên quan

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận