România – Wikipedia tiếng Việt

România (tiếng Romania: România, trong tiếng Việt thường được gọi là Rumani theo tiếng Pháp: Roumanie), là một quốc gia nằm tại đông nam châu Âu, với diện tích 238.391 km². România giáp với Ukraina và Moldova về phía bắc và đông bắc; giáp với Hungary về phía tây bắc; giáp với Serbia về phía tây nam; giáp với Bulgaria về phía nam và giáp với Biển Đen về phía đông. Nước này nằm trên phần lớn diện tích của đồng bằng sông Danube.

Tính đến năm 2017, dân số của nước này là 19.638.000 người [ 9 ], quốc gia này là vương quốc thành viên đông dân thứ bảy của Liên minh châu Âu và thứ mười một của châu Âu. Thủ đô và thành phố lớn nhất của România – Bucharest, là thành phố lớn thứ sáu ở EU và lớn thứ 10 trên lục địa châu Âu, với 2.106.144 dân cư vào năm năm nay [ 10 ]. Các khu đô thị lớn khác gồm có Iași, Timișoara, Cluj-Napoca, Constanța, Craiova và Galați .Lịch sử România chịu tác động ảnh hưởng can đảm và mạnh mẽ bởi lịch sử vẻ vang, văn hóa truyền thống của La Mã cổ đại. Lãnh thổ România ngày này được hình thành do sự hợp nhất của nhiều công quốc România thời trung cổ, trong đó quan trọng nhất là Moldavia, Wallachia và Transilvania. Vương quốc România được xây dựng và đã giành được độc lập từ tay Đế chế Ottoman, sau đó được hội đồng quốc tế công nhận vào năm 1878. Sau Chiến tranh quốc tế thứ hai, România trở thành một nước theo chính sách xã hội chủ nghĩa có quan hệ gắn bó với Liên Xô. Năm 1989, chính sách xã hội chủ nghĩa sụp đổ tại România và nước này quay trở lại con đường tư bản chủ nghĩa. România chính thức trở thành một thành viên của NATO ( 2004 ) và Liên minh châu Âu ( 2007 ) .

Mặc dù là một trong những nước nghèo nhất trong Liên minh châu Âu, nhưng România đứng thứ 50 về chỉ số phát triển con người và là một nước đang phát triển[11][12], với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm là 7% (tính đến năm 2017)[13]. Nền kinh tế chủ yếu dựa vào các ngành dịch vụ, và là một nhà sản xuất và xuất khẩu máy móc và năng lượng điện, có các công ty sản xuất ôtô như Dacia và OMV Petrom. Đại đa số người România tự nhận mình là Kitô hữu và nói tiếng România. Lịch sử văn hoá của România thường được đề cập đến khi nói về các nghệ sỹ có ảnh hưởng, nhạc sĩ, nhà phát minh và vận động viên thể thao.

Bức thư của Neacşu từ năm 1521, tài liệu còn sót lại lâu đời nhất được viết bằng từ năm 1521, tài liệu còn sót lại truyền kiếp nhất được viết bằng tiếng România

Cái tên România có nguồn gốc từ romanus trong tiếng Latin, có nghĩa là “công dân của Roma”[14]. Tên gọi này được sử dụng lần đầu tiên vào thế kỷ 16 bởi các nhà nhân chủng học người Ý khi đi khám phá ở Transylvania, Moldavia và Wallachia[15][16][17][18].

Các tài liệu cổ xưa nhất được biết đến còn sót được viết bằng tiếng România, một bức thư năm 1521 được gọi là Scrisoarea lui Neacșu (Lá thư của Neacşu từ Câmpulung) “[19], xuất hiện tên của đất nước: Wallachia được nhắc đến như Ţeara Rumânească (nghĩa là Đất của România; ţeara bắt nguồn từ terra trong tiếng Latin, có nghĩa là “đất”).

Hai hình thức chính tả: românrumân đã được sử dụng thay thế cho nhau, cho đến khi sự phát triển xã hội vào cuối thế kỷ 17, dẫn đến sự khác biệt về ngữ nghĩa của hai hình thức: rumân có nghĩa là “người đầy tớ”, trong khi român giữ lại ý nghĩa ban đầu. Sau khi bãi bỏ chế độ nô lệ vào năm 1746, từ rumân dần dần mất đi tính sử dụng, và cách viết chính thức là român. Tudor Vladimirescu, một nhà lãnh đạo cách mạng của România đầu thế kỷ 19, đã sử dụng thuật ngữ Rumânia để chỉ riêng xứ Wallachia.

Việc sử dụng tên Români để chỉ quê nhà chung người România – ý nghĩa ngày này của nó – lần tiên phong vào đầu thế kỷ 19. Tên này được chính thức sử dụng kể từ ngày 11 tháng 12 năm 1861 .

Trong tiếng Anh, tên của quốc gia này đã được đánh vần là Rumania hoặc Roumania [20]. Rumani trở nên phổ biến chính trong khoảng năm 1975[21]. Romania cũng là cách viết chính thức theo tiếng Anh được sử dụng bởi chính phủ România[22]. Một số ít các ngôn ngữ khác (bao gồm Ý, Hungary, Bồ Đào Nha và Na Uy) cũng đã chuyển từ “u” sang “o” như tiếng Anh, nhưng nhiều ngôn ngữ vẫn sử dụng “u”, ví dụ như: Roumanie (tiếng Pháp), Rumänien (tiếng Đức và tiếng Thụy Điển), Rumani (tiếng Tây Ban Nha), Rumunia (tiếng Ba Lan), và Румыния (tiếng Nga; chuyển tự: Rumyniya).

Tiếng Việt gọi đất nước này là Rumani, bắt nguồn từ Roumanie trong tiếng Pháp.

Các tên chính thức trong lịch sử dân tộc[sửa|sửa mã nguồn]

Lịch sử bắt đầu[sửa|sửa mã nguồn]

Khu bảo tồn Pagan tại Sarmizegetusa Regia, TP. hà Nội cũ của Vương quốc Dacia, nay là một phần của hạt HunedoaraVùng đất România ngày này đã có những nhóm người khác nhau đến sinh sống từ thời tiền sử. Một mẫu hóa thạch xương hàm của người đàn ông đã được tìm thấy tại România và được xác lập có niên đại khoảng chừng 34.000 đến 36.000 năm. Đây được coi là mẫu hóa thạch người cổ nhất tại châu Âu [ 23 ]. Bên cạnh đó, một hộp sọ có niên đại khoảng chừng 35.000 đến 40.000 năm cũng được tìm thấy tại một hang động gần Anina đã khẳng định chắc chắn con người đã Open tại vùng đất România từ rất sớm .Các dẫn chứng bằng văn bản sớm nhất của những người sống trong chủ quyền lãnh thổ của Romania ngày này – Getae ( những bộ lạc người Thracian từng cư ngụ tại khu vực hai bên hạ Danube, tương ứng với miền Bắc Bulgaria và miền nam România thời nay ), trong cuốn sách Lịch sử của Herodotos ( 440 TCN ) [ 24 ]. Các chủ quyền lãnh thổ nằm ở phía bắc sông Danube là nơi sinh sống của người Dacia, được coi là thuộc về những bộ tộc Getae, là một Trụ sở của người Thracia. Vương quốc Dacia được xây dựng giữa 82 và 44 TCN trong triều đại của Burebista .Những người Dacia đã Open tại România tối thiểu vào khoảng chừng năm 513 trước công nguyên. Dưới sự chỉ huy của Burebista, Dacia trở thành một vương quốc hùng mạnh và thậm chí còn còn rình rập đe dọa cả 1 số ít vùng của Đế quốc La Mã. Trước tình cảnh đó, nhà vua Julius Caesar dự tính mở một chiến dịch lớn chống lại người Dacia nhưng ông đã bị ám sát vào năm 44 trước công nguyên. Không lâu sau đó, Burebista cũng bị ám sát bởi một trong những quý tộc của ông ta. Vương quốc Dacia bị phân thành những vương quốc nhỏ hơn rồi tái thống nhất lại vào năm 95 sau công nguyên dưới sự quản lý của vua Decebalus. Sau đó Dacia lại phải trải qua một tiến trình đầy dịch chuyển cho đến khi nhà vua La Mã là Marcus Ulpius Nerva Traianus vượt mặt Decebalus vào năm 106 sau công nguyên và Dacia trở thành một phần của đế quốc. Nhưng đến năm 271, người La Mã đã phải rút lui do sự xâm lược của người Goth và người Carpi so với vùng đất này .Khoảng năm 271, La Mã rút khỏi Daica. Dân du mục Goth vào chiếm và sinh sống với dân địa phương cho đến thề kỷ 4, khi dân du mục Hung tiến vào. Khu vực Transilvania do dân Gepid và Avar chiếm đóng cho đến thế kỷ VIII. Sau đó bị sáp nhập vào đế quốc Bulgaria đến năm 1018. Trong thế kỷ X – XI, Transilvania thuộc vương quốc Hungary cho đến thế kỷ XVI khi Tỉnh độc lập Transilvania được xây dựng. Do sự tàn phá và những gánh nặng về kinh tế tài chính, dân địa phương không bị tác động ảnh hưởng bởi dân nhập cư về văn hóa truyền thống và lối sống. Người Pechenegs, người Cumans và người Uzes cũng được nhắc đến trong quy trình lịch sử vẻ vang trên vùng chủ quyền lãnh thổ România, cho đến sự xây dựng của những tỉnh România mang tên gọi Wallachia bởi Basarab I, và Moldavia bởi Dragoş vào thế kỷ thứ XIII và thứ XIV theo thứ tự được kể .

Vào thời Trung Cổ, người Romani sống trong hai tỉnh độc lập chính: Wallachia (tiếng Romani: Ţara Românească – “Đất của người Romani”), Moldavia (tiếng Romani: Moldova) cũng như tỉnh Transilvania được cai quản bởi Hungary. Vào năm 1475, Stefan III Đại đế xứ Moldavia đã đại thắng trước quân Ottoman trong trận Vaslui. Tuy nhiên, về sau Wallachia và Moldavia lại dần chịu sự bá chủ của Đế quốc Ottoman trong suốt thế kỷ XV và thế kỷ XVI (năm 1476 đối với Wallachia, Moldavia vào năm 1514), như là những nước chư hầu phải nộp triều cống với quyền tự trị hoàn toàn và sự độc lập đối với bên ngoài cuối cùng mất hẳn vào thế kỷ thứ XVIII.

Một trong những vị vua kiệt xuất của Hungary, Mátyás Corvin (được biết đến trong tiếng România như là Matei Corvin), người trị vì từ 1458-1490, được sinh ra ở Transilvania. Ông tự nhận là người România bởi vì cha ông là người România, Iancu de Hunedoara (Hunyadi János trong tiếng Hungary), và bởi người Hungary vì mẹ ông là người Hungary. Sau này, vào năm 1541, Transilvania trở thành một bang gồm nhiều chủng tộc dưới quyền cai quản của triều đình Ottoman sau trận Mohács.

Năm 1600, cả ba công quốc được hợp nhất thành một liên minh với tên gọi Thân vương quốc Liên hiệp, dưới sự ca trị của Công tước xứ Wallachia – Mihail Viteazal ( 1558 – 9 tháng 8 năm 1601 ). Trong suốt triều đại ông 3 tỉnh này được cư ngụ đa phần bởi người România lần tiên phong sống dưới cùng một chính sách quản lý .

Độc lập và chế độ quân chủ[sửa|sửa mã nguồn]

Trận đánh tại cầu Skit, Bucharest, ngày 9 tháng 11 năm 1877, một phần của Cuộc chiến tranh giành độc lập tại România .Vào năm 1812 đế quốc Nga sáp nhập Bessarabia, phân nửa phần phía đông của Moldavia ( một phần bị mất do Hòa ước Paris ( 1856 ) ) ; vào năm 1775 những nhà vua nhà Habsburg đã sáp nhập phần phía bắc, Bukovina, và Đế quốc Ottoman phần đông-nam, Budjak. Vào cuối thế kỷ XVIII, triều đình Habsburg đã sáp nhập Transilvania vào phần mà sau này trở thành Đế quốc Áo. Trong suốt thời hạn thống trị của đế quốc Áo-Hung ( 1867 – 1918 ), người dân România ở vùng Transilvania đã trải qua một sự đàn áp tệ hại nhất dưới hình thức những chủ trương Hungary hóa của nhà nước Hungary .Nước România văn minh được xây dựng với sự sáp nhập của hai bang Moldavia và Wallachia vào năm 1859 dưới thời Công tước Alexandru Ioan Cuza xứ Moldavia. Ông ta bị thay thế sửa chữa bởi Công tước Karl xứ Hohenzollern-Sigmaringen vào năm 1866. Trong Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ, 1877 – 78, România chiến đấu ủng hộ phía Nga ; trong Hiệp định Berlin, 1878 România được công nhận như thể một nước độc lập bởi những nước đế quốc. Để đổi lại việc nhượng cho Nga ba Q. phía nam của Bessarabia mà sau này được lấy lại bởi Moldavia sau Chiến tranh Krym vào năm 1852, Vương quốc România đoạt lấy Dobruja. Vào năm 1881 bang này được nâng lên thành một vương quốc và Công tước Carol I trở thành vua Carol I .România tham gia Chiến tranh quốc tế thứ nhất cùng phe với Đồng minh ba bên. Chiến dịch quân sự chiến lược của România đã kết thúc thảm hại khi quân Liên minh Trung tâm chinh phục phần nhiều quốc gia và bắt hoặc giết phần nhiều quân đội România chỉ trong vòng 4 tháng. Trong tiến trình cuối của đại chiến, đế quốc Nga hoàng sụp đổ năm 1917 với cuộc Cách mạng Tháng Hai, còn đế quốc Áo-Hung thì tan rã năm 1918. Những sự kiện này được cho phép Bessarabia, Bukovina và Transilvania tái gia nhập với Vương quốc România vào năm 1918. Nước Hungary Phục hồi sau đại chiến đã bãi bỏ những độc quyền và thương hiệu của Hoàng gia Habsburg trong Hiệp ước Trianon vào năm 1920 .

Trong thời kỳ chiến tranh, România được gọi là România Mare (Đại România), quốc gia này đã đạt đến phần mở rộng lãnh thổ lớn nhất (gần 300 nghìn km²)[25]. Việc thực hiện cải cách nông nghiệp triệt để và việc áp dụng hiến pháp mới tạo ra một khuôn khổ dân chủ và cho phép tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. Với sản lượng dầu là 7,2 triệu tấn vào năm 1937, România là nước xuất khẩu lớn thứ hai châu Âu và thứ bảy trên thế giới[26][27], cũng là nước sản xuất lương thực thực phẩm lớn thứ hai châu Âu. Tuy nhiên, đầu những năm 1930 đã được đánh dấu bằng thất nghiệp và đình công, với hơn 25 chính phủ theo sau trong suốt thập kỷ này. Nhiều lần trong những năm trước Thế chiến II, các đảng dân chủ đã bị vướng vào những xung đột với những người phát xít và những người thuộc đảng Mișcarea Legionară (cận vệ sắt) theo xu hướng độc tài của vua Carlos II[28].

Năm 1940 trong Chiến tranh quốc tế thứ hai, Bắc Bukovina và Bessarabia, Bắc Transilvania và phía nam Dobruja bị chiếm bởi Liên Xô, Hungary và Bulgaria theo thứ tự kể trên. Vua Carol II độc đoán đã thoái vị vào năm 1940 và những năm sau đó România bước vào đại chiến tham gia lực lượng của Phe Trục. Sau sự chiếm đóng của Liên Xô, România lấy lại được Bessarabia và phía bắc Bukovina từ nước Nga Xô-viết, dưới sự chỉ huy của tướng Ion Antonescu. Đức tặng thưởng chủ quyền lãnh thổ Transnistria cho România. Trong suốt cuộc Chiến tranh quốc tế thứ hai, chính quyền sở tại Antonescu, liên minh với phát xít Đức, đã đóng một vai trò trong Holocaust, với những chủ trương đàn áp và tàn sát người Do Thái, và ở mức độ thấp hơn là người România. Theo một báo cáo giải trình phát hành năm 2004 bởi một cơ quan do cựu Tổng thống Ion Iliescu chỉ định và điều hành quản lý bởi Elie Wiesel ( người đã từng đoạt giải Nobel ), những nhà cầm quyền România là thủ phạm trong việc lên kế hoạch và thực thi việc giết từ 280.000 đến 380.000 người Do Thái, nguyên trong miền đông România thu lại hay chiếm của Liên Xô, dù trong một số ít tài liệu ước đạt thương vong trong thế chiến II thậm chí còn còn cao hơn .Vào tháng 8 năm 1944 chính quyền sở tại Antonescu bị lật đổ, và România gia nhập phe Đồng Minh chống lại phát xít Đức, nhưng vai trò của nước này trong việc vượt mặt Đức không được công nhận bởi Hiệp định Hòa bình Paris, 1947 .

Thời kỳ Cộng sản[sửa|sửa mã nguồn]

Nicolae Ceaușescu, lãnh đạo România từ năm 1965 cho đến năm 1989.Trong thời hạn Liên Xô chiếm đóng România, chính phủ nước nhà Cộng sản đã lôi kéo bầu cử mới vào năm 1946, với 70 % số phiếu bầu [ 29 ]. Vì vậy, họ nhanh gọn xây dựng chính họ như là lực lượng chính trị thống trị [ 30 ]. Gheorghe Gheorghiu-Dej, một chỉ huy đảng Cộng sản bị cầm tù năm 1933, trốn thoát năm 1944 đã trở thành chỉ huy Cộng sản tiên phong của România. Năm 1947, ông và những người khác buộc vua Mihai I phải thoái vị và rời khỏi quốc gia, và công bố Romania là một nước cộng hòa nhân dân [ 31 ] [ 32 ]. România vẫn thuộc sự chiếm đóng trực tiếp quân sự chiến lược và trấn áp kinh tế tài chính của Liên Xô cho đến cuối những năm 1950. Trong thời hạn này, tài nguyên vạn vật thiên nhiên to lớn của România đã bị những công ty Liên Xô-România hợp tác ( SovRoms ), liên tục những mục tiêu khai thác đơn phương [ 33 ] [ 34 ] [ 35 ] .Năm 1948, nhà nước mở màn quốc hữu hóa những công ty tư nhân và tập hợp nông nghiệp [ 36 ]. Cho đến đầu những năm 1960, chính phủ nước nhà đã cắt giảm nghiêm trọng những quyền tự do chính trị và ngăn ngừa bất kể sự không tương đồng chính kiến ​ ​ nào với sự trợ giúp của Securitate ( công an mật România ). Trong thời hạn này, chính sách đã phát động 1 số ít chiến dịch thanh trừng, với những hình thức trừng phạt khác nhau, như trục xuất, lưu vong nội bộ và bị đày vào những trại cưỡng bức lao động và trại giam, cũng như bị xử tử [ 37 ]. Tuy nhiên, kháng chiến chống Cộng sản là một trong những trào lưu vĩnh viễn nhất ở Khối Đông Âu [ 38 ]. Một Ủy ban thống kê vào năm 2006 ước tính số nạn nhân trực tiếp của sự đàn áp khoảng chừng hai triệu người [ 39 ] .Sau cuộc thương thảo về việc rút lui của Liên Xô tại đây vào năm 1958, România – dưới sự chỉ huy của Nicolae Ceauşescu – khởi đầu theo đuổi những chủ trương độc lập hơn với Liên Xô như việc chỉ trích Khối Warszawa can thiệp quân sự chiến lược vào Tiệp Khắc [ 40 ], liên tục duy trì quan hệ ngoại giao với Israel sau Cuộc chiến 6 ngày năm 1967, thiết lập những mối quan hệ kinh tế tài chính và ngoại giao với Cộng hòa Liên bang Đức [ 41 ]. Ngoài ra, sự hợp tác ngặt nghèo với những vương quốc Ả Rập cho phép România đóng vai trò chủ chốt trong tiến trình đối thoại Israel – Ai Cập và Israel – PLO [ 42 ]. Tuy nhiên, nợ quốc tế của România ngày càng tăng không ngừng, từ năm 1977 – 1981, nợ quốc tế tăng từ 3 lên 10 tỷ USD [ 43 ], ảnh hưởng tác động của những tổ chức triển khai kinh tế tài chính quốc tế như IMF và Ngân hàng quốc tế tăng lên, xích míc với đường lối chính trị của Nicolae Ceauşescu. Ông đề xướng một dự án Bất Động Sản sau cuối để hoàn trả nợ quốc tế của România bởi những đường lối chính trị trên đã làm nghèo và kiệt quệ România, trong khi lan rộng ra quyền lực tối cao của công an và tệ sùng bái cá thể. Việc đó đã làm giảm uy tín của Nicolae Ceauşescu và nhà nước của ông bị lật đổ bởi một cuộc thay máu chính quyền quân sự chiến lược tháng 12 năm 1989. Ông và vợ bị tử hình sau một phiên xử chiếu lệ chỉ diễn ra hai giờ và không có luật sư bào chữa [ 44 ] Tháng 12 năm 1989, chính sách xã hội chủ nghĩa ở România do Nicolae Ceausescu đứng đầu bị sụp đổ, România chuyển sang chính sách đa nguyên, đa đảng .
România gia nhập NATO năm 2004 và tổ chức triển khai Hội nghị Thượng đỉnh NATO năm 2008 tại BucharestNăm 1990, Ion Iliescu được bầu làm Tổng thống và lấy tên chính thức của nước là Cộng hòa România. Hiến pháp mới được phê chuẩn qua cuộc trưng cầu ý dân năm 1991. Sau khi biến hóa thể chế chính trị, cánh tả đã cầm quyền tại România cho tới cuối 1996. Tháng 11 năm 1996, cánh hữu thắng cử nhưng đã thất bại trong việc hồi sinh và quản trị kinh tế tài chính – xã hội nên cánh tả trở lại nắm quyền cuối năm 2000. Năm 1995, România đệ đơn xin gia nhập Liên hiệp châu Âu. Năm 1996, România và Hungary ký một hiệp định chung công bố bãi bỏ những tranh chấp ( không xâm phạm biên giới và bảo vệ quyền của thiểu số người Hungary sống trong chủ quyền lãnh thổ România ). Đảng Dân chủ Cơ Đốc giáo giành thắng lợi trong cuộc bầu cử lập pháp, Emil Constantinescu trở thành Tổng thống. Năm 2000, Ion Iliescu tái đắc cử và trở lại chỉ huy quốc gia. Tuy nhiên, do đời sống nhân dân chậm được cải tổ nên tháng 12 năm 2004 cánh hữu lại thắng cử và cầm quyền cho tới nay. România đã gia nhập NATO từ 29 tháng 3 năm 2004 và EU từ 1 tháng 1 năm 2007 .Cựu Tổng thống Traian Băsescu ( 2004 – năm trước ) đã hai lần bị Quốc hội România luận tội ( năm 2007 và 2012 ), lần thứ hai trên nền tảng của cuộc biểu tình đường phố đầu năm 200. Trong cuộc trưng cầu dân ý tổng thống România năm 2012, hơn 7 triệu cử tri ( 88 % số người tham gia ) [ 45 ] đã bỏ phiếu để lật đổ Băsescu, so với 5.2 triệu cử tri khởi đầu ủng hộ ông trong cuộc bầu cử tổng thống România năm 2009. Tuy nhiên, Tòa án Hiến pháp România, trong một quyết định hành động đã nhìn nhận tác dụng của cuộc trưng cầu dân ý, cho biết số cử tri đi bầu ( 46,24 % theo số liệu thống kê chính thức ) là quá thấp [ 46 ]. Những người ủng hộ Băsescu đã được ông và đảng cũ của ông lôi kéo không tham gia trưng cầu dân ý, do đó nó sẽ bị vô hiệu do không đủ cử tri đi bầu [ 47 ] .Vào tháng 11 năm năm trước, thị trưởng thành phố Sibiu Klaus Iohannis giật mình vượt mặt thủ tướng đương nhiệm Victor Ponta, người đã đứng vị trí số 1 trong những cuộc thăm dò ý kiến. Chiến thắng giật mình này là do nhiều người đến với hội đồng người România, trong đó gần 50 % đã bỏ phiếu cho Iohannis trong vòng tiên phong, so với 16 % cho Ponta [ 48 ] .Các cuộc biểu tình chống cơ quan chính phủ lớn nhất lịch sử vẻ vang România đã xảy ra vào nửa đầu năm 2017. Điển hình, vào tháng 1 năm 2017, nhiều ngày sau khi cơ quan chính phủ của Sorin Grindeanu tuyên thệ nhậm chức tại România, nhiều cuộc biểu tình lớn đã diễn ra trên khắp quốc gia chống lại nghị định được đề xuất kiến nghị bởi Bộ Tư pháp România về việc tha thứ tội phạm cam kết nhất định, và sửa đổi Bộ luật Hình sự România ( đặc biệt quan trọng là tương quan đến việc lạm dụng quyền lực tối cao [ 49 ] ). Ngay sau khi có thông tin rằng những pháp lệnh được trải qua, hơn 25.000 người đã xuống đường biểu tình trong đêm đó. Các cuộc biểu tình tăng lên vào ngày hôm sau đến hơn 300.000 người trên khắp cả nước, trở nên những cuộc biểu tình lớn nhất kể từ sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản [ 50 ]. Tiếp đó, ngày 12/11, hàng nghìn người România đã tham gia những cuộc biểu tình tại nhiều thành phố để phản đối dự luật cải cách tư pháp của cơ quan chính phủ. Theo những người biểu tình, những sửa đổi theo dự luật sẽ làm suy yếu những nỗ lực chống tham nhũng. Tại thủ đô hà nội Bucharest, hơn 1.000 người biểu tình đã tập trung chuyên sâu phản đối những chủ trương kinh tế tài chính ” không rõ ràng ” của cơ quan chính phủ. Người biểu tình cũng tập trung chuyên sâu trước trụ sở của đảng Dân chủ Xã hội cầm quyền nhằm mục đích phản đối đảng này. Biểu tình cũng diễn ra ở 1 số ít thành phố khác. Trước đó ngày 5/11, hơn 12.000 đã tham gia những cuộc biểu tình tại Bucharest phản đối dự luật cải cách tư pháp. Tại hàng chục thành phố khác, hàng nghìn người cũng đổ xuống đường phản đối dự luật mà họ cho là sẽ làm suy yếu quyền lực tối cao của Cơ quan chống tham nhũng vương quốc ( DNA ) cũng như ngăn cản cơ quan này triển khai tìm hiểu những quan chức. Theo dự luật cải cách, tổng thống sẽ không còn quyền chỉ định những công tố viên hạng sang. Các quan điểm phản đối cho rằng việc sửa đổi dự luật có tiềm năng duy nhất là bảo vệ những nhà chỉ huy tham nhũng .nhà nước từ năm 1989 cũng đã bị chỉ trích vì đã được cho phép những công ty quốc tế khai thác mỏ khoáng chất, sắt kẽm kim loại hiếm và vàng ở Rosia Montana, cũng như được cho phép tập đoàn lớn nguồn năng lượng đa vương quốc Chevron của Mỹ khai thác khí đá phiến bằng kỹ thuật fracking, gây ô nhiễm trữ lượng nước ngọt của những khu vực bị ảnh hưởng tác động. Trong năm 2012 – năm trước đã có 1 số ít cuộc biểu tình lớn chống lại cả hai hành vi này .
Khuôn khổ chính trị của România là một nước cộng hòa bán tổng thống, đại nghị, nơi thủ tướng là người đứng đầu chính phủ nước nhà và tổng thống là người đứng đầu nhà nước. Quyền hành pháp được triển khai bởi tổng thống nước cộng hòa và cơ quan chính phủ. România có một mạng lưới hệ thống đa đảng, có quyền lập pháp trong chính phủ nước nhà và hai viện của Quốc hội : Phòng Đại biểu và Thượng viện. những cơ quan tư pháp là độc lập của cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp. Hiến pháp România năm 1991 ( sửa đổi năm 2003 ) công bố nó một nước cộng hòa dân chủ và xã hội, bắt nguồn của nó từ nhân dân. Theo hiến pháp, ” Nhân phẩm, quyền công dân và tự do, sự tăng trưởng không cản trở nhân cách, công lý và đa nguyên chính trị là những giá trị tối cao và được bảo vệ. ” Hiến pháp lao lý về một Tổng thống, một Quốc hội, một Toà án Hiến pháp và một mạng lưới hệ thống của TANDTC riêng không liên quan gì đến nhau gồm có Tòa án Tối cao. Quyền bỏ phiếu được cấp cho toàn bộ công dân trên 18 tuổi .Hệ thống tư pháp độc lập với những nhánh khác của chính phủ nước nhà, và được tạo thành từ một mạng lưới hệ thống phân cấp của những tòa án nhân dân trải qua Tòa án Tối cao của Giám đốc thẩm và Tư pháp, là TANDTC tối cao của România [ 51 ]. Ngoài ra còn có những TANDTC kháng nghị, TANDTC Q. và tòa án nhân dân địa phương. Hệ thống tư pháp România bị ảnh hưởng tác động can đảm và mạnh mẽ bởi quy mô của Pháp, dựa trên luật dân sự và có đặc thù tra hỏi trong tự nhiên. Tòa án Hiến pháp ( Curtea Constituţională ) chịu nghĩa vụ và trách nhiệm nhìn nhận sự tuân thủ luật và những lao lý khác của nhà nước so với hiến pháp, đó là luật cơ bản của vương quốc và chỉ hoàn toàn có thể được sửa đổi trải qua trưng cầu dân ý [ 52 ] [ 53 ]. Việc gia nhập EU năm 2007 đã ảnh hưởng tác động đáng kể đến chủ trương trong nước của nó, và gồm có cải cách tư pháp, tăng cường hợp tác tư pháp với những nước thành viên khác, và những giải pháp chống tham nhũng .România có một mạng lưới hệ thống đa đảng với nhiều đảng phái chính trị, không một đảng nào có thời cơ giành hầu hết QH, và những bên phải thao tác với nhau để xây dựng những cơ quan chính phủ liên minh. Hệ thống hiện tại được xây dựng trong Cách mạng România năm 1989 và trải qua hiến pháp mới năm 1991 ; trước những sự kiện này, România là một vương quốc độc đảng do đảng Cộng sản Romania nắm quyền .Từ đầu những năm 1990, chính trị România đã giảm dần số lượng những bên tham gia Quốc hội và một sự hợp nhất tương đối của những bên hiện hữu dọc theo những dòng tư tưởng. Các đảng chính hoàn toàn có thể được nhóm lại thành những ” mái ấm gia đình ” tự do, dân chủ hoặc bảo thủ [ 54 ]. Nhóm cực đoan có một hồ sơ chính trị tương đối thấp ở România, mặc kệ một sự thông dụng của chính trị cánh hữu và Chủ nghĩa hoài nghi Châu âu trên khắp châu Âu trong những năm 2010 [ 55 ]. Tuy nhiên, việc quy đổi đảng ( chính trị học theo trào lưu ) vẫn là một yếu tố, cũng như sự tham nhũng, dẫn đến mức độ tin yêu công khai minh bạch thấp ở những đảng chính trị ( 12 % vào tháng 12 năm năm trước ) [ 56 ]. Để chống lại nhận thức này, hai đảng lớn nhất năm năm ngoái ( Đảng Dân chủ Xã hội và Dân tộc Tự do ) đã khởi xướng một loạt những cải cách nội bộ nhằm mục đích tăng cường những tiêu chuẩn về tính toàn vẹn của họ và áp đặt những giải pháp trừng phạt kỷ luật so với những thành viên đảng tìm hiểu hoặc phán quyết về tội tham nhũng [ 57 ] [ 58 ] [ 59 ] .Điều 40 của Hiến pháp România pháp luật rằng công dân hoàn toàn có thể tự do link với những đảng chính trị, ngoại trừ những thẩm phán, nhân viên cấp dưới quân sự chiến lược, công an và những công chức khác [ 60 ]. Cùng một nghị quết cấm những bên tham gia chiến dịch chống lại chủ nghĩa đa nguyên chính trị, pháp luật của pháp lý và chủ quyền lãnh thổ và toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của Romania. Hệ thống đảng của Romania được lao lý bởi Luật số 1. 14/2003 về những đảng chính trị ; khởi đầu, pháp lý bắt buộc một list gồm 25.000 người ủng hộ, cư trú tại tối thiểu 18 hạt và Đô thị Bucharest, để một bên được chính thức ĐK. Tuy nhiên, vào tháng 2 năm năm ngoái, Đảng cướp biển România đã ĐK khiếu nại với Tòa án Hiến pháp, lập luận rằng nhu yếu list là vi phạm những pháp luật hiến pháp về quyền tự do hiệp hội. Tòa án sau đó đã hủy bỏ nhu yếu, công bố là không hợp hiến pháp và vào ngày 6 tháng 5 năm năm ngoái, Quốc hội Rumani đã phê chuẩn một phiên bản sửa đổi của luật, được cho phép xây dựng một đảng chính trị với 3 chữ ký [ 61 ] [ 62 ] .

Quan hệ đối ngoại và quân sự chiến lược[sửa|sửa mã nguồn]

Lực lượng Hải quân România trong một cuộc tập trận với Hà Lan tại bãi biển Vadu .Từ tháng 12 năm 1989, România đã theo đuổi một chủ trương tăng cường quan hệ với phương Tây nói chung, đơn cử hơn là với Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu, mặc dầu vẫn có quan hệ với Nga. Nước này gia nhập NATO ngày 29 tháng 3 năm 2004, Liên minh châu Âu vào ngày 1 tháng 1 năm 2007, gia nhập Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới vào năm 1972. România là một thành viên sáng lập của Tổ chức Thương mại Thế giới [ 63 ] .nhà nước lúc bấy giờ công bố tiềm năng tăng cường quan hệ với và giúp sức những nước khác ( đặc biệt quan trọng là Moldova, Ukraina và Gruzia ) với quy trình hội nhập với những nước phương Tây [ 64 ]. Từ những năm 1990, nước này có những góp phần đáng kể cho NATO và trợ giúp cho những nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ ở Đông Âu và khu vực Kavkaz trở thành thành viên EU [ 64 ]. Romania cũng công bố sự tương hỗ của chính phủ nước nhà so với Thổ Nhĩ Kỳ, và việc Croatia gia nhập Liên minh châu Âu [ 64 ]. Vì người Hungary là dân tộc thiểu số ở România, nước này cũng đã tăng trưởng mối quan hệ can đảm và mạnh mẽ với Hungary. România đã chọn ngày 1 tháng 1 năm 2007 để tham gia Khu vực Schengen và đề xuất kiến nghị ​ thành viên của họ đã được Nghị viện châu Âu trải qua vào tháng 6 năm 2011, nhưng đã bị Hội đồng châu Âu vô hiệu vào tháng 9 năm 2011 .Tháng 12 năm 2005, Tổng thống Traian Băsescu và Ngoại trưởng Hoa Kỳ Condoleezza Rice đã ký một thoả thuận được cho phép sự hiện hữu của quân đội Hoa Kỳ tại România, hầu hết ở phía đông quốc gia [ 65 ]. Tháng 5 năm 2009, Hillary Clinton, Ngoại trưởng Hoa Kỳ công bố rằng ” România là một trong những đối tác chiến lược đáng đáng tin cậy và đáng kính nhất của Mỹ ” [ 66 ] .Mối quan hệ với Moldova là một trường hợp đặc biệt quan trọng. Hai nước này đều san sẻ cùng một ngôn từ và lịch sử dân tộc chung. Một trào lưu thống nhất của România và Moldova Open vào đầu những năm 1990 sau khi cả hai nước từ bỏ chính sách cộng sản [ 64 ], nhưng đã bị mất điểm vào giữa những năm 1990 khi một chính phủ nước nhà Moldova mới theo đuổi một chương trình nghị sự nhằm mục đích bảo vệ một nước cộng hòa Moldova độc lập [ 67 ]. Sau cuộc biểu tình năm 2009 tại Moldova, quyền lực tối cao của đảng Cộng sản bị xóa bỏ, quan hệ giữa hai nước đã được cải tổ đáng kể [ 68 ] .Lực lượng vũ trang România gồm có lục quân, không quân và thủy quân, được chỉ huy bởi một Tổng tư lệnh dưới sự giám sát của Bộ Quốc phòng. Lực lượng vũ trang gồm có khoảng chừng 15.000 thường dân và 75.000 là quân nhân – 45.800 lực lượng lục quân, 13.250 trong lực lượng không quân, 6.800 trong lực lượng thủy quân và 8.800 trong những đơn vị chức năng khác [ 69 ]. Tổng chi tiêu cho quốc phòng năm 2007 chiếm 2,05 % tổng GDP vương quốc, khoảng chừng 2,9 tỷ đô la Mỹ, với tổng số 11 tỷ đô la dành cho việc hiện đại hoá và shopping trang thiết bị mới từ năm 2006 đến năm 2011 [ 70 ] .

România đã đóng góp quân đội cho việc gìn giữ hòa bình ở Afghanistan từ năm 2002[71], với sự triển khai tối đa 1.600 quân năm 2010. Nghĩa vụ quân sự của nước này đã kết thúc vào năm 2014[72]. Quân đội România đã tham gia Các cuộc tấn công Iraq, với khoảng 730 lính, trước khi rút xuống còn 350 binh lính. România đã chấm dứt sứ mệnh của mình tại Iraq và rút quân vào ngày 24 tháng 7 năm 2009. Các tàu khu trục HMS Coventry (mua từ Vương quốc Anh) của România tham gia vào can thiệp quân sự năm 2011 tại Libya.
Vào tháng 12 năm 2011, Thượng viện România đã nhất trí thông qua dự thảo luật phê chuẩn thoả thuận giữa România và Hoa Kỳ ký kết vào tháng 9 năm đó, cho phép thiết lập và vận hành hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo trên đất liền của Mỹ ở România như là một phần của NATO, nhằm xây dựng một lá chắn tên lửa lục địa[73].

Đơn vị hành chính[sửa|sửa mã nguồn]

România được chia thành 41 hạt (județe) và vùng đô thị Bucharest. Mỗi hạt được quản lý bởi một hội đồng hạt, chịu trách nhiệm về các vấn đề địa phương, cũng như một bộ trưởng chịu trách nhiệm quản lý các vấn đề quốc gia ở cấp hạt. Trưởng hạt được bổ nhiệm bởi chính quyền trung ương nhưng không thể là thành viên của bất kỳ đảng chính trị nào[74]. Mỗi hạt được chia nhỏ thành các thành phố và xã, có thị trưởng và hội đồng địa phương riêng. Có tổng cộng 319 (municipiu) thành phố, 217 thị trấn (oraş) và 2.686 xã (comună) ở România[75]. Tổng cộng có 103 thành phố lớn có trạng thái đô thị, mang lại quyền hành chính cao hơn đối với các vấn đề địa phương. Đô thị Bucharest là một trường hợp đặc biệt vì nó ngang bằng với một hạt. Nó được chia thành sáu vùng, có cấp hành chính như một hạt và có một hạt trưởng, một thị trưởng chung (primar), và một hội đồng thành phố chung[75].

Đơn vị cấp NUTS-3 của Liên minh châu Âu phản ánh cấu trúc chủ quyền lãnh thổ hành chính România, tương ứng với 41 hạt cộng với Bucharest [ 76 ]. Các thành phố và xã tương ứng với cấp NUTS-5, nhưng không có phân cấp cấp NUTS-4. Cấp NUTS-1 ( bốn khu vực tăng trưởng ) và NUTS-2 [ 77 ] ( tám khu vực tăng trưởng ) sống sót nhưng không có năng lượng hành chính và được sử dụng để điều phối những dự án Bất Động Sản tăng trưởng khu vực và mục tiêu thống kê [ 76 ] .

Tôn giáo tại România ( 2011 )

 Chính thống Giáo (81.0%)

 Công giáo Rôma (4.3%)

 Cải cách (3.0%)

 Phong trào Ngũ Tuần (1.8%)

 Công giáo Hy Lạp (0.7%)

 

 Báp-tít (0.6%)

 Phục Lâm (0.4%)

 Khác (1.8%)

 Không tôn giáo (0.2%)

 Không rõ (6.2%)

Tính đến năm 2011, dân số România vào khoảng chừng 20.112.641 người [ 3 ]. Giống như những nước khác trong khu vực, số lượng này dự kiến ​ ​ sẽ giảm dần trong những năm tới do tỷ suất sinh và tỷ suất di cư giảm. Thống kê vào tháng 10 năm 2011, người România chiếm 88,9 % dân số. Các dân tộc thiểu số lớn nhất là người Hungary ( chiếm 6,5 % dân số ), và người Di-gan ( chiếm 3,3 % dân số ) [ 80 ]. Người Hungary tại România sinh sống hầu hết ở Harghita và Covasna. Các dân tộc thiểu số khác gồm người Ukraina, người Đức, người Thổ, người Lippovans, người Arumans, người Tatar và người Serb [ 81 ]. Năm 1930, 745.426 người Đức sống ở România [ 82 ], nhưng lúc bấy giờ chỉ còn lại 36.000 người [ 81 ]. Năm 2009, khoảng chừng 133.000 người nhập cư sống ở România, hầu hết đến từ Moldova và Trung Quốc [ 83 ] .Số lượng người România và những cá thể gốc România sống ở quốc tế ước tính khoảng chừng 12 triệu [ 84 ]. Sau cuộc Cách mạng România năm 1989, một số lượng lớn người România di cư sang những nước châu Âu khác, Bắc Mỹ hoặc Úc [ 85 ]. Ví dụ, vào năm 1990, 96.919 người România định cư vĩnh viễn ở quốc tế [ 86 ] .Tiếng România là ngôn từ chính thức của nước này, đây là một ngôn từ Rôman thuộc nhóm ngôn từ gốc Ý của ngữ hệ Ấn-Âu, có nhiều điểm tương đương với tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Bồ Đào Nha [ 87 ], trong đó thứ tiếng này gần với tiếng Ý nhất [ 87 ]. Bảng vần âm România gồm 26 vần âm giống bảng vần âm La tinh chuẩn và thêm năm vần âm bổ trợ ( đơn cử là ‘ ă ‘, ‘ â ‘, ‘ î ‘, ‘ ț ‘ và ‘ ș ‘ ), tổng số là 31 .Tiếng România được nói như là ngôn từ mẹ đẻ của 85 % dân số, trong khi tiếng Hungary và Vlax Romani ( một nhánh ngôn từ của tiếng România ) được nói bởi những người bản xứ, chiếm 6,2 % và 1,2 % dân số. Có 25.000 người nói tiếng Đức và 32.000 người nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ sống ở România, cũng như gần 50.000 người nói tiếng Ukraina [ 88 ], tập trung chuyên sâu ở một số ít khu vực nhỏ gần biên giới, nơi họ chiếm đa phần [ 89 ]. Hiến pháp hội đồng địa phương pháp luật phải bảo vệ quyền hạn về ngôn từ của tổng thể những dân tộc thiểu số, và trong hội đồng nơi dân tộc thiểu số chiếm hơn 20 % dân số nên những ngôn từ thiểu số hoàn toàn có thể được sử dụng trong mục tiêu hành chính, mạng lưới hệ thống tư pháp và giáo dục. Người quốc tế và người không quốc tịch sống ở Romania có quyền tiếp cận công lý và giáo dục bằng ngôn từ của họ [ 90 ]. Tiếng Anh và tiếng Pháp là hai ngoại ngữ chính được giảng dạy tại những trường học [ 91 ] [ 92 ]. Năm 2010, Cộng đồng Pháp ngữ xác lập 4.756.100 người nói tiếng Pháp, chiếm 17 % dân số. Khoảng 31 % dân số nước này nói tiếng Anh [ 93 ] .România là một nhà nước thế tục và không có tôn giáo nào được công nhận quốc giáo. Tuy nhiên, đại đa số công dân của nước này tự nhận mình là Kitô hữu. 86,7 % dân số của quốc gia được xác lập là Chính Thống giáo theo tìm hiểu dân số năm 2002, hầu hết trong số đó thuộc về Giáo hội Chính thống România. Các giáo phái Kitô giáo khác là Tin Lành ( 5,2 % ), Công giáo Rôma ( 4,7 % ) và Giáo hội Công giáo nghi lễ Hy Lạp ( 0,9 % ). [ 94 ] Đây cũng là hai tổ chức triển khai tôn giáo phải chịu đựng sự đàn áp nặng nề nhất dưới chính sách Cộng sản. Giáo hội Công giáo nghi lễ Hy Lạp vẫn bị cấm bởi chính quyền sở tại cộng sản vào năm 1948, [ 95 ] sau đó, dưới chính sách Ceauşescu, 1 số ít nhà thời thánh ở Transilvania đã bị tàn phá. Tin Lành và Công giáo cũng tập trung chuyên sâu ở Transilvania .România cũng có một hội đồng Hồi giáo tập trung chuyên sâu ở Dobruja, đa phần là người Thổ Nhĩ Kỳ và Tatar với dân số 67.500 người. [ 96 ] Theo tác dụng tìm hiểu dân số năm 2002, có 66.846 công dân România theo đức tin Unitarian ( 0,3 % tổng dân số ). Trong tổng số những dân tộc thiểu số nói tiếng Hungary ở România, giáo phái Unitarians đại diện thay mặt cho 4,55 % dân số, là nhóm giáo phái Kitô lớn thứ ba sau Giáo hội Cải cách ở România ( 47,10 % ) và Công giáo ( 41,20 % ). Từ năm 1700, Giáo hội Unitarian đã có 125 giáo xứ, trong năm 2006, có 110 mục sư Unitarian và 141 nơi thờ tự ở România .Ngày 27 tháng 12 năm 2006, một Luật mới về tôn giáo đã được phê duyệt, theo đó những giáo phái tôn giáo chỉ hoàn toàn có thể nhận được sự công nhận chính thức của nhà nước nếu họ có tối thiểu 20.000 thành viên, chiếm khoảng chừng 0,1 % tổng dân số của România. [ 97 ]Mặc dù 54,0 % dân số sống ở khu vực thành thị vào năm 2011 [ 3 ], tỷ suất này đã giảm từ năm 1996 [ 98 ]. Các hạt có dân số đô thị cao hơn là Hunedoara, Brașov và Constanța, có dân số ít hơn là Dâmbovița ( 30,06 % ), Giurgiu và Teleorman [ 3 ]. Bucharest là Hà Nội Thủ Đô và là thành phố lớn nhất ở România, với dân số hơn 1,8 triệu người vào năm 2011. Vùng đô thị Bucharest có dân số gần 2,2 triệu người [ 99 ], dự kiến ​ ​ sẽ được đưa vào vùng đô thị lên đến 20 lần diện tích quy hoạnh của thành phố thích hợp [ 100 ] [ 101 ] [ 102 ]. 19 thành phố khác có dân số trên 100.000 người như : Cluj-Napoca và Timișoara với hơn 300.000 dân, Iași, Constanța, Craiova và Brașov với hơn 250.000 dân, và Galați và Ploiești với hơn 200.000 người [ 79 ]. Các khu vực đô thị đã được thiết lập cho hầu hết những thành phố này .

Giáo dục đào tạo và y tế[sửa|sửa mã nguồn]

Đại học Bucharest .Giáo dục đào tạo ở România dựa trên mạng lưới hệ thống giáo dục không tính tiền, bình đẳng. Tiếp cận với giáo dục không tính tiền được bảo vệ theo Điều 32 trong Hiến pháp România [ 103 ]. Giáo dục đào tạo được lao lý và thực thi bởi Bộ Giáo dục đào tạo vương quốc [ 104 ], đều có hình thức tổ chức triển khai riêng và chịu sự kiểm soát và điều chỉnh của những luật và thông tư khác nhau. Kể từ sự sụp đổ của chính sách cộng sản, mạng lưới hệ thống giáo dục România đã được trải qua 1 số ít cải cách .

Mẫu giáo là tùy chọn dưới sáu tuổi. Học tập bắt buộc bắt đầu từ sáu tuổi, với “năm học chuẩn bị” (clasa pregătitoare) để vào lớp một. Việc bắt buộc đi học cho đến lớp mười (tương ứng với mười sáu hay mười bảy tuổi). Chu kỳ giáo dục của một học sinh kết thúc vào lớp mười hai, khi sinh viên tốt nghiệp đại học. Giáo dục đại học được sắp xếp vào Khu vực Giáo dục Đại học Châu Âu. Ngoài hệ thống giáo dục chính thức, gần đây đã được thêm vào hệ thống tư nhân, dạy kèm, bán pháp lý và không chính thức.

Giáo dục đào tạo ĐH tương thích với khu vực giáo dục ĐH châu Âu. Kết quả của điều tra và nghiên cứu nhìn nhận PISA tại những trường trong năm 2012 đã đưa România lên hạng 45 trong số 65 nước tham gia [ 105 ] và năm năm nay cơ quan chính phủ România đã công bố số liệu thống kê cho thấy 42 % trẻ 15 tuổi không biết đọc [ 106 ]. mặc dầu România thường giành huy chương trong những kỳ thi olympic toán học [ 107 ] [ 108 ] [ 109 ]. Đại học Alexandru Ioan Cuza tại Iași, ĐH Babeș-Bolyai Cluj-Napoca, ĐH Bucharest và Đại học Tây Timișoara đã được đưa vào bảng xếp hạng top 800 của tạp chí QS World University Rankings [ 110 ] .România có một mạng lưới hệ thống y tế toàn thế giới và tổng tiêu tốn y tế chiếm khoảng chừng 5 % GDP nước này [ 111 ]. Nó gồm có khám bệnh, bất kể can thiệp phẫu thuật và chăm nom y tế sau phẫu thuật nào, cũng như cung ứng những loại thuốc không lấy phí hoặc trợ cấp cho nhiều loại bệnh khác nhau. Nhà nước có nghĩa vụ và trách nhiệm hỗ trợ vốn cho những bệnh viện công và phòng khám. Nguyên nhân thông dụng nhất gây tử trận là bệnh tim mạch và ung thư. Các bệnh truyền nhiễm như bệnh lao, giang mai hoặc viêm gan siêu vi, thông dụng hơn ở Tây Âu [ 112 ]. Năm 2010, Romania có 428 bệnh viện công và 25 bệnh viện tư nhân [ 113 ], với 6,2 giường trên 1.000 dân [ 114 ] và hơn 200.000 nhân viên cấp dưới y tế, trong đó có hơn 52.000 bác sĩ [ 115 ]. Trong năm 2013, tỷ suất di cư y tế cao hơn so với mức trung bình của châu Âu là 2,5 % 9 % [ 116 ] .

Điều kiện tự nhiên[sửa|sửa mã nguồn]

Đỉnh Moldoveanu ( 2544 m ), ngọn núi cao nhất của RomâniaCổng SắtVới diện tích quy hoạnh 238.391 km², România là vương quốc lớn nhất ở Đông Nam Âu và lớn thứ mười hai ở châu Âu [ 117 ], nằm giữa vĩ độ 43 ° và 49 ° N và kinh độ 20 ° và 30 ° E. Nước này giáp với Hungary về phía tây-bắc, Moldova và Ukraina về phía hướng đông bắc, Sông Danube ở phía nam là biên giới tự nhiên giữa România và Bulgaria, đồng thời cũng là biên giới giữa Serbia và nước này. Dãy núi Karpat chiếm phần đông phía tây của quốc gia, đỉnh điểm nhất là Moldoveanu ( 2.544 m ) [ 118 ]. Khoảng 47 % diện tích quy hoạnh đất của vương quốc được bao trùm bởi những hệ sinh thái tự nhiên và bán tự nhiên [ 119 ] .47 % chủ quyền lãnh thổ của România gồm có những hệ sinh thái tự nhiên và bán tự nhiên [ 119 ]. Vì gần 50% rừng ở România ( 13 % chủ quyền lãnh thổ ) đã được thiết lập để bảo vệ lưu vực thay vì sản xuất, România là một trong những nước có tỷ lệ rừng lớn nhất châu Âu [ 119 ]. Khoảng 10.000 km² ( khoảng chừng 5 % tổng diện tích quy hoạnh ) là những khu bảo tồn, gồm có 13 vườn vương quốc và ba khu dự trữ sinh quyển [ 119 ] [ 120 ]. Đã xác lập được 3.700 loài thực vật thủy sinh, 74 loài đã tuyệt chủng, 39 loài nguy cấp, 171 loài dễ bị tổn thương và 1.253 loài quý và hiếm [ 121 ]. Hệ động vật hoang dã gồm có 33.792 loài. Trong đó : 33.085 loài động vật hoang dã không xương sống, 707 động vật hoang dã có xương sống [ 121 ], gần 400 loài động vật hoang dã có vú, chim, bò sát và lưỡng cư [ 122 ]. khoảng chừng 50 % Gấu nâu châu Âu ( không kể Nga ) [ 123 ] và 20 % chó sói đều tập trung chuyên sâu tại vương quốc này [ 124 ] .Có 12 vườn vương quốc ở România và tổng số hơn 500 khu bảo tồn vạn vật thiên nhiên. Hầu hết những khu bảo tồn nằm ở Dãy núi Karpat, và chỉ có 1 số ít ít ship hàng như một khu vực du lịch. Đồng bằng sông Danube được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới và là vùng đất ngập nước lớn nhất châu Âu. Cổng Sắt trên biên giới Serbia và România có nhiều khung cảnh đẹp .

Khí hậu và thủy văn[sửa|sửa mã nguồn]

Do vị trí nằm ở phần phía đông nam lục địa Châu Âu, nên România có khí hậu ôn đới và lục địa. Dọc theo sông Danube và phía tây nam của quốc gia là khí hậu lục địa khí ẩm, tương tự như xảy ra ở phía đông nam. Trên bờ biển là khí hậu ôn đới đại dương. Ở những vùng đồi núi được đặc trưng bởi khí hậu núi cao. Ở phía nam, mùa đông khá ấm hơn so với phía bắc và có những cơn mưa kinh hoàng hơn so với phần còn lại của quốc gia, đặc biệt quan trọng là vào mùa thu. Ở phía đông nam, lượng mưa thường ít hơn. Ở phía bắc của quốc gia ( Maramureş và Bucovina ), khí hậu lạnh và ẩm hơn, với mùa đông khá lạnh [ 125 ] [ 126 ] .Nhiệt độ trung bình hàng năm là 11 °C ở phía nam, TT phía nam và 8 °C ở phía đông bắc. Ở Bucharest, ở phía nam – đông nam, nhiệt độ biến hóa giữa mức trung bình tối thiểu – 5 °C trong tháng 1 và trung bình tối đa 29 °C trong tháng 7 và tháng 8, trung bình – 3 °C vào tháng 1 và 23 °C ở Tháng 7 và tháng 8. Lượng mưa giảm từ hướng Tây sang hướng đông và từ những ngọn núi đến đồng bằng. Lượng mưa trung bình hàng năm ở một số ít vùng miền núi trên 1000 mm. Lượng mưa trung bình hàng năm là 635 mm ở TT Transylvania, 521 mm ở Iaşi ( Moldova ) và chỉ 381 mm ở Constanta, trên bờ Biển Đen. Lượng mưa chỉ vượt quá 750 mm ở những khu vực miền núi cao nhất phía tây của quốc gia, phần nhiều ở dạng tuyết. Ở đồng bằng sông Danube, lượng mưa trung bình hàng năm thấp khoảng chừng 370 mm ; ở Bucharest là 530 mm [ 127 ] .Mùa hè nói chung khá nóng – ở những vùng hạ lưu, như Bucharest, nhiệt độ không tăng lên trên 35 °C [ 128 ]. Mùa đông khá lạnh [ 129 ], nhiệt độ tối đa trung bình không vượt quá 3 °C và – 15 °C ở những đỉnh núi cao nhất. Kỷ lục nhiệt độ thấp nhất là – 38,5 °C, được đo gần Braşov vào năm 1942. Kỷ lục nhiệt độ cao nhất là 44,5 °C tại Râmnicelu, huyện của Brăila vào năm 1951 [ 130 ] .Khoảng 1.075 km chiều dài sông Danube chảy qua chủ quyền lãnh thổ România, tạo thành biên giới phía nam với Serbia và Bulgaria. Hầu hết tổng thể những con sông ở România đều là nhánh của sông Danube, trực tiếp hoặc gián tiếp. Khi sông Danube chảy vào Biển Đen, gần 40 % dòng chảy của sông chảy từ sông România. Những con sông quan trọng nhất là Mureş, Olt, Prut, Siret, Ialomiţa, Someş và Arges. Hầu hết những sông ở România chảy về phía đông, tây và nam từ TT dãy Karpat. Nguồn phân phối nước hầu hết là mưa và tuyết tan chảy, gây ra những biến hóa lớn trong dòng chảy và đôi lúc gây ra lũ lụt thảm khốc. Nước từ những con sông ở phía đông của quốc gia là nguồn phân phối chính cho những sông Siret và Prut. Ở phía nam, những sông chảy trực tiếp vào sông Danube và ở phía tây những vùng nước phân phối nước cho sông Tisza của Hungary, và lần lượt là nhánh của sông Danube .Sông Danube là con sông quan trọng nhất ở România không chỉ để luân chuyển, mà còn góp thêm phần cho việc sản xuất thủy điện. Một trong những xí nghiệp sản xuất thủy điện lớn nhất châu Âu nằm ở Cổng Sắt, nơi sông Danube rời những hẻm núi Karpat. Sông là một tuyến giao thông vận tải quan trọng, cả trong nước và quốc tế. Nó hoàn toàn có thể điều hướng bằng những tàu sông trong chủ quyền lãnh thổ România và bằng tàu biển đến cảng Brăila. Một trong những yếu tố của việc sử dụng sông Danube để luân chuyển trong nước là ở xa hầu hết những TT công nghiệp lớn, và những đầm lầy ngăn cản việc xác định ở một số ít khu vực nhất định .
România là một trong những đơn vị sản xuất và xuất khẩu số 1 những loại sản phẩm nông nghiệp ở Châu Âu, chiếm 10 % GDP. Diện tích rừng chiếm 40 % bề mặt đất nước ; Tài nguyên rừng đa dạng chủng loại và nghề đánh cá đang lan rộng ra. Các mỏ khí tự nhiên và dầu mỏ góp phần một phần đáng kể vào nhu yếu tiêu dùng hàng ngày, nhưng nước này lại phải nhập khẩu chúng, hầu hết từ Nga. Để nỗ lực giảm sự nhờ vào vào những yếu tố bên ngoài, những nhà máy sản xuất điện hạt nhân và thủy điện đã được tăng nhanh việc hoạt động giải trí, và cung ứng 45 % nguồn năng lượng tiêu thụ trong nước .Sau Thế chiến II, những nguồn lực kinh tế tài chính của România đã được quốc hữu hóa và hoạt động giải trí theo quy mô kinh tế tài chính kế hoạch. Vào năm 1989, với sự sụp đổ của chính sách cộng sản, chính phủ nước nhà mới đã triển khai một loạt những cải cách để đưa ra mạng lưới hệ thống kinh tế thị trường. Sau nhiều năm tư nhân hoá và phân cấp, cơ quan chính phủ România đã có sự can thiệp đáng kể trong nền kinh tế tài chính, ngoài một nền kinh tế tài chính đa dạng và phong phú hơn trong thời kỳ XHCN, khởi đầu chuyển từ chủ nghĩa cộng sản sang chủ nghĩa tư bản vào cuối năm 1989 [ 131 ]. Dẫn đến một cuộc suy thoái và khủng hoảng 3 năm năm 2000. Kể từ khi kết thúc chủ nghĩa cộng sản, quốc gia này đã trải qua hàng loạt những cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị kể từ năm 1990. Một cuộc khảo sát của Viện Điều tra tội ác chủ nghĩa Cộng sản cho thấy 60 % người România cho rằng nền kinh tế tài chính hoạt động giải trí tốt hơn dưới chính sách cộng sản [ 132 ]. Cuộc suy thoái và khủng hoảng kinh tế tài chính toàn thế giới năm 2008 / 2012 đã gây tác động ảnh hưởng can đảm và mạnh mẽ đến România và cơ quan chính phủ đã giảm tiêu tốn công xuống 1 tỷ euro trong năm 2009 và 3 tỷ trong năm 2010, dẫn tới sự sụt giảm kinh tế tài chính của quốc gia khoảng chừng 8-8, 5 % trong năm 2009 của Tổng sản phẩm trong nước .
Giữa năm 2009 và 2013 nhiều công ty bị phá sản. Đất nước này thậm chí còn còn phải nhờ đến những gói cứu trợ của EU và IMF ( khoảng chừng 20.000 triệu euro ), điều này bắt nguồn từ một loạt những kiểm soát và điều chỉnh và cải cách. Lớn nhất là cắt giảm 25 % lương công chức và 15 % lương hưu, gây ra một làn sóng biểu tình, buộc thủ tướng Emil Boc phải từ chức vào tháng 2 năm 2012 [ 133 ]. Trong năm 2017, GDP România khoảng chừng 197,004 tỷ USD, tăng 4 % so với cùng kỳ năm trước, trong khi tỷ suất thất nghiệp đã giảm xuống 5,5 %. Dưới sự chỉ huy của Sorin Grindeanu, Thủ tướng România, nhà nước đã giảm thuế giá trị ngày càng tăng, đồng thời tăng mức lương của công chức và người về hưu. Lạm phát vẫn ở mức dưới 3,5 % [ 134 ] [ 135 ] .Sản lượng công nghiệp tăng 6,5 % so với cùng kỳ năm trước [ 136 ]. Các công ty lớn nhất trong nước gồm có những hãng xe xe hơi Dacia, Petrom, Rompetrol, Ford România, Electrica, Romgaz, RCS và RDS và Banca Transilvania [ 137 ]. Xuất khẩu chính của România là xe hơi, ứng dụng, quần áo, những mẫu sản phẩm dệt may, máy móc công nghiệp, thiết bị điện và điện tử, loại sản phẩm luyện kim, nguyên vật liệu thô, thiết bị quân sự chiến lược, dược phẩm, hóa chất, và những mẫu sản phẩm nông nghiệp ( trái cây, rau và hoa ). Thương mại đa phần tập trung chuyên sâu vào những nước thành viên của Liên minh châu Âu, với Đức và Ý là những đối tác chiến lược thương mại lớn nhất. Số dư thông tin tài khoản ngân hàng nhà nước trong năm 2012 được ước tính là − 4,52 % GDP [ 138 ] .

Đơn vị tiền tệ chính thức của România là leu. Quốc gia này gia dự kiến ​​sẽ thông qua đồng Euro vào năm 2022[139].

România đã thành công xuất sắc trong việc tăng trưởng viễn thông [ 140 ], hàng không ngoài hành tinh [ 141 ], và những ngành sản xuất vũ khí [ 142 ] [ 143 ] [ 144 ]. Công nghiệp và thiết kế xây dựng chiếm 32 % tổng sản phẩm quốc nội ( GDP ) vào năm 2018. Các ngành công nhiệp sử dụng 26,4 % lực lượng lao động. Với việc sản xuất hơn 600.000 xe trong năm 2018, România là đơn vị sản xuất xe hơi lớn thứ sáu ở châu Âu. Hãng ôtô Dacia đang sản xuất hơn một triệu xe mỗi năm ( với 1 nhà máy sản xuất ở Maroc ) .Năm 2018, România là một trong những thị trường lớn nhất quốc tế về máy móc, công cụ ( 5,3 % ). Các công ty có trụ sở tại România như Automobile Dacia, Ford, Petrom, Rompetrol và Bitdefender nổi tiếng khắp châu Âu. Tuy nhiên, những công ty sản xuất nhỏ và vừa vẫn chiếm hầu hết trong nghành sản xuất. Các công ty này sử dụng hai phần ba lực lượng lao động România. Sản lượng công nghiệp của România dự kiến sẽ tăng 7 % trong năm 2018, trong khi sản lượng nông nghiệp dự kiến tăng 12 %. Tiêu thụ cũng được dự kiến sẽ tăng 11 % về mặt tổng thể và toàn diện, tiêu dùng cá thể tăng 14,4 % và tiêu thụ tập thể tăng 10,4 %. Nhu cầu trong nước dự kiến tăng 12,7 % .Sự tăng trưởng của ngành công nghiệp là yếu tố chính cho sự tăng trưởng kinh tế tài chính. Năm 2018 ngành công nghiệp sản xuất chiếm khoảng chừng 35 % tổng sản phẩm quốc nội và 29 % lực lượng lao động. Được hưởng lợi từ sự khuyến khích can đảm và mạnh mẽ trong nước và viện trợ quốc tế, những nhà công nghiệp của Bucharest đã trình làng những công nghệ tiên tiến văn minh vào những cơ sở sản xuất văn minh hoặc nhanh gọn, tăng sản lượng sản phẩm & hàng hóa – đặc biệt quan trọng là những loại sản phẩm để xuất khẩu sang thị trường quốc tế. Kết quả là, ngành công nghiệp dự kiến sẽ tăng 7,1 % vào năm 2018 [ 145 ] .Các ngành công nghiệp nặng nói chung tập trung chuyên sâu ở phía nam của quốc gia. Các xí nghiệp sản xuất ở Bucharest đã góp phần hơn 25 % tổng thể những giá trị ngày càng tăng sản xuất vào năm 2018 ; cùng với những nhà máy sản xuất ở xung quanh Ilfov, những xí nghiệp sản xuất ở khu vực Bucharest đã sản xuất 26 % tổng sản lượng trong năm đó. Các xí nghiệp sản xuất ở Bucharest sử dụng 18 % trong số 3,1 triệu công nhân xí nghiệp sản xuất của cả nước .

Cơ sở hạ tầng[sửa|sửa mã nguồn]

Ga tàu ngầm TitanTheo INSSE, tổng số mạng lưới đường đi bộ của România ước tính năm năm ngoái khoảng chừng 86.080 km [ 146 ]. Ngân hàng Thế giới ước tính mạng lưới đường tàu vào khoảng chừng 22,298 km – mạng lưới đường tàu lớn thứ tư ở châu Âu [ 147 ]. Ngành vận tải đường bộ đường tàu giảm mạnh sau năm 1989, và ước tính có 99 triệu hành khách vào năm 2004 ; nhưng gần đây đã tăng trưởng nhanh gọn do nâng cấp cải tiến hạ tầng và tư nhân hóa từng phần [ 52 ], chiếm 45 % vận tải đường bộ hành khách và sản phẩm & hàng hóa trong nước [ 52 ]. Tàu điện ngầm Bucharest được khai trương mở bán vào năm 1979 với 61,41 km, lượng hành khách trung bình trong năm 2007 là 600.000 người trong suốt tuần thao tác [ 148 ]. Có 16 trường bay thương mại quốc tế, với năm trường bay quốc tế : Henri Coandă, Sân bay Quốc tế Aurel Vlaicu, Sân bay Quốc tế Timișoara, Sân bay Quốc tế Constanta và Sân bay Quốc tế Sibiu, có năng lực luân chuyển máy bay thân rộng. Hơn 9.2 triệu hành khách đã bay qua trường bay quốc tế Henri Coandă của Bucharest vào năm năm ngoái [ 149 ] .

România là nước xuất khẩu năng lượng điện và đứng thứ 48 trên thế giới về tiêu thụ lượng điện năng[150][cần nguồn tốt hơn]. Khoảng 1/3 năng lượng sản xuất đến từ các nguồn năng lượng tái tạo, chủ yếu là thủy điện[151]. Năm 2015, các nguồn năng lượng chính là than (28%), thủy điện (30%), hạt nhân (18%) và hydrocarbon (14%)[152]. România là một trong những năng lực lọc dầu lớn nhất ở Đông Âu, mặc dù sản lượng dầu và khí thiên nhiên đã giảm trong hơn một thập kỷ[150]. Với một trong những trữ lượng dầu thô và đá phiến lớn nhất ở châu Âu[150], nó là một trong những nước độc lập về năng lượng nhất trong Liên minh châu Âu[153], và đang tìm cách mở rộng hơn nữa nhà máy điện hạt nhân của mình tại Cernavodă[154].

Có gần 18,3 triệu lượt liên kết với Internet vào tháng 6 năm năm trước [ 155 ]. Theo Bloomberg, năm 2013 România xếp thứ 5 trên quốc tế, và theo The Independent, đứng thứ nhất ở châu Âu với vận tốc hóa internet [ 156 ] [ 157 ], theo Timișoara được xếp hạng cao nhất trên quốc tế [ 158 ] .România cũng có một hải cảng kế hoạch cạnh tranh đối đầu tốt với nhiều vương quốc láng giềng trong việc thực thi những hoạt động giải trí kinh doanh thương mại trên biển. Hải cảng Constanta là hải cảng náo nhiệt nhất ở Biển Đen, tiêu biểu vượt trội so với những nơi khác. Thêm vào đó, hạ tầng của hải cảng và lực lượng lao động được giáo dục huấn luyện và đào tạo tốt, có kiến thức và kỹ năng, cũng là nền tảng cho việc tăng trưởng nền kinh tế tài chính sản xuất sản phẩm & hàng hóa và những hoạt động giải trí xuất nhập khẩu .
Lâu đài Peleș, Sinaia. Những thành tháp cổ ở România thường là một trong những khu vực du lịch nổi tiếng, và cũng được sử dụng làm toàn cảnh trong một vài bộ phim .România có một cảnh sắc phong phú, gồm có Dãy núi Karpat, bờ Biển Đen và đồng bằng sông Danube [ 159 ], Các làng România thường giữ lối sống truyền thống cuội nguồn. România có rất nhiều kiến trúc tôn giáo, một số ít thị xã và thành tháp thời trung cổ [ 160 ] .

Du lịch ở România tập trung vào cảnh quan thiên nhiên và lịch sử phong phú của nó, đóng góp quan trọng cho nền kinh tế của đất nước. Năm 2006, du lịch trong nước và quốc tế cung cấp 4,8% GDP và khoảng nửa triệu lao động (5,8% tổng số lao động)[161]. Sau thương mại, du lịch là ngành quan trọng thứ hai của ngành dịch vụ. Trong số các lĩnh vực kinh tế của România, du lịch là ngành năng động và phát triển nhanh chóng, và cũng được đặc trưng bởi tiềm năng lớn để mở rộng[162]. Theo ước tính của Hội đồng Du lịch & Du lịch Thế giới, România đứng thứ 4 trong số các nước du lịch phát triển nhanh chóng, với tốc độ tăng trưởng hàng năm khoảng 8% từ năm 2007 đến năm 2016[163]. Lượng khách du lịch tăng từ 4,8 triệu người năm 2002, 6,6 triệu trong năm 2004. Ngoài ra, trong năm 2005, du lịch România thu được 400 triệu euro[164].

Trong những năm gần đây, Romania đã trở thành một điểm đến ưa thích của nhiều người châu Âu (hơn 60%[165] du khách nước ngoài đến từ các nước EU), sánh ngang và đang trong cuộc cạnh tranh với các nước khác như Bulgaria, Hy Lạp, Ý và Tây Ban Nha. Các khu du lịch như Mangalia, Saturn, Venus, Neptun, Olimp và Mamaia (đôi khi được gọi là Riviera Română) là một trong những điểm du lịch chính trong mùa hè[166]. Vào mùa đông, khu nghỉ mát trượt tuyết trên Thung lũng Prahova và Poiana Brasov là điểm đến yêu thích của du khách nước ngoài[167][168]. Nhiều thành phố cổ ở Transylvania như Sibiu, Brasov, Sighisoara, Cluj-Napoca và Targu Mures đã trở thành điểm du lịch lớn. Gần đây, du lịch nông thôn cũng đã phát triển, tập trung vào việc thúc đẩy văn hóa dân gian và truyền thống[169]. [312] Các điểm tham quan chính là Lâu đài Bran, các nhà thờ gỗ bắc Moldavia, các nhà thờ bằng gỗ Transylvania và nghĩa trang Merry ở Săpânţa[170]. Các điểm du lịch tự nhiên, chẳng hạn như đồng bằng sông Danube, Cổng Sắt, hang Scarisoara và các hang động khác trong dãy núi Apuseni[171].

Bởi những công dụng phức tạp của nó, vị trí trong nước và nhiều mặt giá trị lịch sử vẻ vang, kiến trúc, Bucharest là một trong những TT du lịch chính ở România [ 171 ] [ 172 ]. Bucharest được đặc trưng bởi sự trộn lẫn giữa những phong thái kiến trúc, Curtea Veche, phần còn lại của hoàng cung Vlad Impaler – là người sáng lập của thành phố và cũng là nguồn cảm hứng cho nhân vật Dracula, Các nhà thời thánh Chính thống giáo thuộc phong thái Second Empire, những kiến trúc chịu sử ảnh hưởng tác động của chủ nghĩa Stalin, với Cung điện Quốc hội, một tòa nhà khổng lồ với sáu nghìn phòng, là tòa nhà lớn thứ hai trên quốc tế sau Ngũ Giác Đài [ 173 ] .Trong số những điểm du lịch thăm quan quan trọng nhất của Bucharest là : România Athenaeum, Arc de Triomphe, Ngân hàng Cung điện Quốc gia, Nhà hát Quốc gia, Đại học Bucharest, Cismigiu Gardens, Vườn Bách thảo, Công viên Herastrau, Bảo tàng Village, Bảo tàng Nghệ thuật Quốc gia România, Bảo tàng Quốc gia Lịch sử, Bảo tàng Quốc gia Grigore Antipa, Nhà thờ Stavropoleos … [ 174 ] [ 175 ] Ngoài ra, tại đây, Hội chợ Du lịch Romania được tổ chức triển khai hàng năm [ 176 ] [ 177 ] .

Khoa học và công nghệ tiên tiến[sửa|sửa mã nguồn]

Vuia I do ông chế tạo, năm 1906.Traian Vuia thử nghiệm chiếc máy baydo ông chế tạo, năm 1906.Trong lịch sử dân tộc, những nhà nghiên cứu và ý tưởng România đã có những góp phần đáng kể trong những nghành nghề dịch vụ khoa học khác nhau. Traian Vuia đã thực thi những thí nghiệm tiên phong và thành công xuất sắc trong ngành hàng không và Aurel Vlaicu sản xuất và thử nghiệm một số ít chiếc máy bay tiên phong trong lịch sử vẻ vang, trong khi Henri Coandă đã phát hiện ra hiệu ứng Coandă trên chất lỏng. Victor Babeş phát hiện hơn 50 loại vi trùng ; nhà sinh vật học Nicolae Paulescu phát hiện ra insulin, trong khi Emil Palade nhận giải Nobel về những góp phần của ông cho sinh học tế bào. Lazăr Edeleanu là nhà hóa học tiên phong tổng hợp amphetamine, trong khi Costin Neniţescu đã tăng trưởng nhiều loại hợp chất mới trong hóa hữu cơ. Các nhà toán học nổi tiếng khác gồm có Spiru Hare, Grigore Moisil và Ştefan Odobleja ; những nhà vật lý học và ý tưởng : Şerban Ţiţeica, Alexandru Proca và Ştefan Procopiu [ 178 ] .Trong những năm 1990 và 2000, sự tăng trưởng nghiên cứu và điều tra đã bị cản trở bởi một số ít yếu tố, gồm có tham nhũng, hỗ trợ vốn thấp, và một lượng chảy máu chất xám đáng kể [ 179 ]. Tuy nhiên, kể từ khi nước này gia nhập Liên minh châu Âu, điều này đã khởi đầu biến hóa [ 180 ]. Sau khi bị cắt giảm 50 % trong năm 2009 do cuộc Đại suy thoái và khủng hoảng, tiêu tốn R&D đã tăng 44 % trong năm 2010 và hiện đang ở mức 500 triệu USD [ 181 ] .Vào tháng 1 năm 2011, QH cũng trải qua một luật đạo áp đặt ” trấn áp chất lượng khắt khe trên những trường ĐH và trình làng những quy tắc khó khăn vất vả hơn cho việc nhìn nhận và nhìn nhận đồng đẳng ” [ 182 ]. Quốc gia này đã tham gia hoặc sắp tham gia một số ít tổ chức triển khai khoa học quốc tế số 1 như CERN và Cơ quan Vũ trụ châu Âu [ 183 ] [ 184 ] .
România là một vương quốc phong phú về văn hóa truyền thống, bộc lộ qua con người, địa lý và lịch sử dân tộc riêng không liên quan gì đến nhau. Người ta đưa ra giả thuyết và suy đoán rằng người România, ( Protoromână, gồm có Aromanians, Meglenoromână, và Istroromână ) là hậu duệ của người La Mã và người dân địa phương. Người Daci, một trong những người bản xứ đa phần ở Trung và Đông Nam Âu, là một trong những tổ tiên của người Protoromână. Người ta tin rằng người La Mã, người Daci, người Slav và người Illyria là tổ tiên của người România, người Aromania ( Vlach ), người Meglenoromână, và người Istroromână. Văn hoá România cũng có một số ít nét tương đương với những nền văn hoá cổ xưa khác bên ngoài Balkans, ví dụ điển hình như văn hóa truyền thống của người Armenia .

Văn học và nghệ thuật và thẩm mỹ[sửa|sửa mã nguồn]

Mihai Eminescu là nhà thơ có tầm ảnh hưởng tác động nhất trong nền thi ca România

Chủ đề nguồn gốc người România được thảo luận vào khoảng cuối thế kỷ 18 giữa các học giả của trường Transylvania[185]. Một số nhà văn nổi tiếng đã xuất hiện trong thế kỷ 19, bao gồm George Cosbuc, Ioan Slavici, Mihail Kogălniceanu, Vasile Alecsandri, Nicolae Bălcescu, Ion Luca Caragiale, Ion Creangă. Mihai Eminescu, sau này được coi là nhà thơ quốc gia România và Moldova lớn nhất và có ảnh hưởng nhất, đặc biệt là bài thơ Luceafărul[186]. Các nghệ sĩ România trong thế kỷ 20 được sự ca ngợi của quốc tế, bao gồm Tristan Tzara, Marcel Janco, Mircea Eliade, Nicolae Grigorescu, Marin Preda, Liviu Rebreanu[187], Eugène Ionesco, Emil Cioran và Constantin Brancusi. Elie Wiesel – người România gốc Do Thái sống sót sau đại diệt chủng Holocaust đã nhận giải Nobel Hòa bình vào năm 1986, trong khi trong khi nhà văn Herta Müller đã nhận được giải Nobel Văn học năm 2009.

Các họa sỹ nổi tiếng của România gồm Nicolae Grigorescu, Ștefan Luchian, Ion Andreescu Nicolae Tonitza và Theodor Aman. Các nhà soạn nhạc cổ xưa România nổi tiếng của thế kỷ 19 và 20 gồm có Ciprian Porumbescu, Anton Pann, Eduard Caudella, Mihail Jora, Dinu Lipatti và đặc biệt quan trọng là George Enescu. Lễ hội George Enescu hàng năm được tổ chức triển khai tại Bucharest để tôn vinh những nhà soạn nhạc nổi tiếng của thế kỷ 20 [ 188 ]. Các nhạc sĩ đương đại như Angela Gheorghiu, Gheorghe Zamfir [ 189 ] [ 190 ], Inna [ 191 ], Alexandra Stan [ 192 ] và nhiều nhạc sĩ khác đã đạt được nhiều sự ca tụng của quốc tế. Tại Eurovision Song Contest, những ca sĩ România đã đạt được vị trí thứ ba trong năm 2005 và 2010 [ 193 ] .

Trong điện ảnh, một số bộ phim của hãng Noul val românesc đã đạt được sự ca ngợi của quốc tế. Tại Liên hoan phim Cannes, 4 luni, 3 săptămâni și 2 zile (4 tháng, 3 tuần, 2 ngày) của đạo diễn Cristian Mungiu giành giải thưởng Cành cọ vàng năm 2007[194]. Tại Liên hoan phim quốc tế Berlin, Child Pose của Călin Peter Netzer giành giải Gấu vàng năm 2013[195].

Danh sách những di sản quốc tế gồm có sáu khu vực văn hóa truyền thống nằm trong România : Các nhà thời thánh Moldavia, nhà thời thánh gỗ ở Maramureş, những ngôi làng và nhà thờ-công sự ở Transilvania, Tu viện Horezu và Trung tâm lịch sử dân tộc Sighişoara [ 196 ]. Thành phố Sibiu được chọn là Thủ đô Văn hóa Châu Âu năm 2007 [ 197 ]. Nhiều thành tháp vẫn còn sống sót và nổi tiếng : Lâu đài Peleș [ 198 ], Lâu đài Corvin và Lâu đài Dracula [ 199 ] .
Gheorghe Hagi (phải) được bầu chọn là cầu thủ vĩ đại nhất của România thế kỷ 20.Thể thao là một phần quan trọng trong nền văn hoá của România. Bóng đá là môn thể thao phổ cập nhất ở România, những câu lạc bộ thành công xuất sắc nhất là Steaua Bucuresti đội bóng Đông Âu tiên phong giành UEFA Champions League và Siêu cúp châu Âu năm 1986. Các câu lạc bộ bóng đá quan trọng khác là FC Dinamo Bucureşti, Universitatea Craiova, FC Rapid București và CFR Cluj. România là một trong bốn đội tuyển vương quốc từ châu Âu tham gia World Cup 1930. Các đội bóng đá vương quốc România đã tham gia bảy lần FIFA World Cup và đã thành công xuất sắc nhất trong suốt những năm 1990, khi họ vào vòng tứ kết giải bóng đá vô địch quốc tế 1994, và để thua Thụy Điển tại vòng bán kết. Romania được FIFA xếp thứ ba vào năm 1997 [ 200 ] .Các môn thể thao phổ cập khác gồm có bóng ném, bóng chuyền, bóng rổ, bóng bầu dục, đánh tennis và thể dục dụng cụ [ 201 ]. Nhiều vận động viên România đã đạt được thành công xuất sắc đáng kể và đã giành được huy chương tại những kỳ thi quốc tế và châu Âu trong những năm qua. România lần tiên phong tham gia Thế vận hội Mùa hè 1900 và đã tham gia 21 trong 28 trận đấu. România là một trong những nước thành công xuất sắc nhất tại Thế vận hội mùa hè, với tổng số 307 huy chương giành được, 25 trong số những huy chương vàng giành được đều nằm trong thể dục dụng cụ. Các vận động viên România cũng đã giành được huy chương vàng trong những môn thể thao Olympic khác, ví dụ điển hình như chèo thuyền, đấu vật, bắn súng, đấu kiếm, bơi, ném đĩa, cử tạ, boxing và judo. România cũng là vương quốc thành công xuất sắc nhất trong những giải của Balkan Championships [ 202 ] .
Cozonac, món bánh mì truyền thống của România, món bánh mì truyền thống cuội nguồn của RomâniaẨm thực România là một sự tích hợp phong phú từ nhiều món khác nhau, nhưng nó cũng giữ nét đặc trưng riêng của. Nó ảnh hưởng tác động hầu hết bởi một loạt những món ăn châu Âu như những món ăn của Áo, nhà hàng siêu thị Đức, nhà hàng siêu thị Hy Lạp hay ẩm thực ăn uống Hungary, tuy nhiên nó cũng gồm có những yếu tố nhà hàng bắt nguồn từ những món ăn của người Slav Đông và Trung Âu, điển hình nổi bật là ẩm thực ăn uống Serbia và Bulgaria, cũng như nhà hàng siêu thị Ba Lan, Ukraina và Nga .

Có khá nhiều loại món ăn khác nhau, đôi khi được bao gồm trong một thuật ngữ chung; ví dụ: ciorbă bao gồm một loạt các món súp với vị chua đặc trưng. Đây có thể là súp thịt và rau, súp nội tạng (ciorbă de burtă), súp chân dê, hoặc súp cá, tất cả đều có vị chua từ nước cốt chanh, nước dưa cải, giấm, hoặc borș (theo truyền thống được làm từ cám). țuică (brandy mận) làm thuật ngữ chung cho loại spirit có cồn mạnh tại România, trong khi ở các nước khác, mỗi loại có tên gọi khác nhau.

Biểu tượng vương quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Quốc kỳ România (tiếng România: Drapelul României) là quốc kỳ của nước này với ba sọc dọc: lam, vàng và đỏ, những màu sắc được tìm thấy vào cuối thế kỷ 16 của hoàng gia Michael Brave, cũng như phù hiệu và biểu ngữ đại diện cho România khắp mọi nơi. Trong cuộc nổi dậy Wallachian năm 1821, những màu này bao gồm cờ cách mạng và lần đầu tiên mang một ý nghĩa: “Tự do (lam), Tư pháp (vàng), Tình huynh đệ (đỏ máu)”. Màu sắc cũng tượng trưng cho các công quốc hình thành nên România: Vallachia – vàng (có cờ vàng và lam trước Liên minh năm 1859), Moldavia – đỏ (có cờ đỏ và lam trước Liên minh năm 1859) và Transylvania -xanh (có cờ lam-đỏ-vàng trước Liên minh năm 1918).

Quốc huy România bao gồm 1 tấm khiên màu xanh – tượng trưng cho bầu trời. Giữa là một con đại bàng aquila màu vàng, đang gặm một cây thánh giá Chính thống giáo, tượng trưng cho Latinh, trên đầu con đại bàng là Vương miện Thép (Coroana de Oțel), tượng trưng cho lòng can đảm. Con đại bàng giữ trong móng vuốt của nó phù hiệu chủ quyền: một cây quyền trượng và một thanh kiếm. Thanh kiếm tượng trưng cho người cai trị Moldavia, Stephen Đại đế trong khi quyền trượng tượng trưng cho Mihai Viteazu (Mihai dũng cảm), người thống nhất đầu tiên của România. Trên ngực của đại bàng có một tấm khiên với các quốc huy của các công quốc và vùng lịch sử România (Wallachia, Moldavia, Transylvania, Banat, Oltenia và Dobruja).

Deșteaptă-te, române! (Hãy thức dậy, người România!) là quốc ca chính thức của nước này. Nó được viết và xuất bản trong cuộc cách mạng năm 1848 và lần đầu tiên được hát vào cuối tháng 6 cùng năm tại thành phố Brașov, ngay lập tức được chấp nhận như một bài ca cách mạng. Kể từ đó, bài hát này, gửi đến một thông điệp về tự do và lòng yêu nước, đã được hát trong tất cả các cuộc xung đột lớn của Româina, kể cả trong cuộc cách mạng lật đổ Ceauşescu năm 1989. Năm 1989, nó trở thành quốc ca, thay thế cho quốc ca thời cộng sản – “Trei culori” (Ba màu). Nó cũng được sử dụng làm quốc ca của nước Cộng hòa Dân chủ Moldavia, trong sự tồn tại ngắn ngủi của nó, giữa năm 1917 và 1918 cũng như Cộng hòa Moldova giữa năm 1991 và 1994. Ngày 29 tháng 7 hằng năm là “Ngày quốc ca” (Ziua Imnului național) của nước này.

Quốc khánh România được gọi là “Ngày Đại thống nhất” (Ziua Marii Uniri, tổ chức vào ngày 1 tháng 12 hằng năm). Nó kỷ niệm hội nghị của các đại biểu của những người Transilvania được tổ chức tại Alba Iulia, tuyên bố liên minh Transylvania với Romania. Ngày nghỉ này được tổ chức sau Cách mạng România năm 1989 và nó đánh dấu sự thống nhất Transylvania, và các tỉnh Bessarabia và Bukovina với Vương quốc România vào năm 1918. Trước năm 1918, ngày lễ này được thiết lập vào ngày 10 tháng 5 với nghĩa kép: đó là ngày mà vua Carol I của România đặt chân lên đất România (năm 1866), và đó là ngày mà chính vị vua này phê chuẩn Tuyên ngôn Độc lập từ Đế quốc Ottoman năm 1877.

Có nhiều biểu tượng và đồ tạo tác mang tính biểu tượng khác, cả chính thức và không chính thức. Vương miện Thép (Coroana de Oțel) được rèn từ thép của một khẩu súng bị lấy bởi quân đội România từ Ottoman trong suốt Chiến tranh Độc lập (1877-1878). Vua Carol I của Romania đã chọn thép, chứ không phải vàng, vì muốn tượng trưng cho sự dũng cảm của binh sĩ România và được trao vương miện trong lễ tuyên ngôn România là một vương quốc vào năm 1881 ở Bucharest. Những câu khẩu hiệu quốc gia: “Nihil Sine Deo” (Không là gì nếu thiếu Chúa), “Toți în unu” (Tất cả như một), “Dreptate, Frăție” (Tư pháp, Tình huynh đệ), “In Fide Salus” (Trong đức tin là sự cứu rỗi). Những người được xem là anh hùng dân tộc: Decebal (vị vua cuối cùng của Dacia giữa năm 87-106 CN[203] và nổi tiếng với việc chiến đấu trong ba cuộc chiến tranh và hai thời kì đàm phán hòa bình chống lại Đế chế La Mã dưới thời hai vị hoàng đế[204] trong giai đoạn hòa bình ngắn sau cùng(cuối những năm 102-105) do sự nhượng bộ của Trajan), Trajan (hoàng đế chinh phạt Dacia), Mihai Viteazul (người thống nhất các công quốc để thành lập nên Thân vương quốc Liên hiệp – nền tảng của nhà nước România hiện đại[205][206]), Alexandru Ioan Cuza (hoàng tử khởi xướng một loạt các cải cách đã góp phần vào sự hiện đại hóa của xã hội România và bộ máy nhà nước). Ferdinand (vua của România). Các loài quốc hoa: nhung tuyết, tầm xuân, Paeonia tenuifolia…

Các ngày nghỉ lễ chính thức[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết văn hóa truyền thống, lịch sử vẻ vang[sửa|sửa mã nguồn]

Rate this post

Bài viết liên quan

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận